TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 143/2023/HS-ST NGÀY 12/07/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 12 tháng 7 năm 2023, tại Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 185/2023/TLST-HS, ngày 26 tháng 6 năm 2023; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 216/2023/QĐXXST-HS, ngày 29 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo:
Phan Châu Đ, sinh năm 1996, tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Nhà số 298B, đường P V K, Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (thực tế không có cư trú tại địa phương); nơi ở: Không ổn định; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Văn C và bà Châu Thị L; có vợ và 01 con sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không có; bị bắt tạm giữ ngày 10-3-2023, tạm giam ngày 16-3-2023 “có mặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 03 giờ ngày 10/3/2023, Tổ công tác 363-Công an quận Bình Tân cùng với Công an phường An Lạc tuần tra đến trước nhà số 295, đường D, phường An Lạc, quận Bình Tân thì nhìn thấy tên Phạm T K đang điều khiển xe môtô biển số 59L1-xxxxx chở Phan Châu Đ chạy trên đường có biểu hiện nghi vấn nên ra hiệu dừng xe lại kiểm tra. Qua kiểm tra, đã phát hiện thu giữ 01 gói nylon bên trong có 01 viên nén màu xám cùng với 01 mảnh vụn viên nén màu xám và 01 gói nylon in chữ Deadpood chứa chất bột màu vàng trong túi quần phía trước bên phải của Đ đang mặc. Khi đó, Đ cho biết là ma túy của Đ để sử dụng nên đưa tất cả đến Công an phường An Lạc xử lý người có hành vi phạm tội quả tang rồi sau đó chuyển cho Cơ quan điều tra giải quyết theo thẩm quyền. Tại đây, Đ đã khai: Do có hẹn trước qua điện thoại di động với người thanh niên (không rõ lai lịch) nên khoảng 01 giờ ngày 10/3/2023, Đ đến khu vực Bến xe Miền Tây, đường D, phường An Lạc, quận Bình Tân gặp người này mua số ma túy trên với giá 2.200.000 đồng để dành sử dụng. Đến khoảng 01 giờ 30 phút cùng ngày, Đ đến trước quán hủ tíu gặp người bạn tên K rồi giao xe cho người này điều khiển chở Đ đi ăn khuya và khi cả 02 trên đường đi thì bị Công an kiểm tra bắt giữ nên tên K hoàn toàn không biết và cũng không liên quan gì đến số ma túy của Đ. Do lời khai của Đ phù hợp với lời khai của tên K cùng với các tài liệu, chứng cứ khác nên tên K không bị xử lý hình sự. Theo kết luận giám định, 01 viên nén màu xám cùng với 01 mảnh vụn viên nén màu xám là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,6526g, loại MDMA; bột màu vàng là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,3541g, loại Methamphetamine, MDMA, Nimetazepam. Tuy Cơ quan điều tra có văn bản yêu cầu Phòng PC09-Công an Thành phố Hồ Chí Minh bốc tách khối lượng từng loại chất ma túy này, nhưng Phòng PC09-Công an Thành phố Hồ Chí Minh căn cứ quy định tại Thông tư liên tịch số: 08/2015/TTLT-BCA VKSNDTC-TANDTC-BTP, ngày 14/11/2015 của Bộ Công an-Viện kiểm sát nhân dân Tối Cao-Tòa án nhân dân Tối Cao-Bộ Tư pháp đã trả lời,“không thuộc các trường hợp bắt buộc phải giám định hàm lượng nên không thực hiện”.
Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Phan Châu Đ khai nhận: Do nghiện ma túy nên có đến khu vực Bến xe Miền Tây, đường D, phường An Lạc, quận Bình Tân mua của người thanh niên (không rõ lai lịch) 01 gói ma túy, bên trong gồm 01 viên nén màu xám cùng với 01 mảnh vụn viên nén màu xám và 01 gói chất bột màu vàng giá 2.200.000 đồng để dành sử dụng. Sau đó, bị cáo đến trước quán hủ tíu gặp người bạn tên Phạm T K rồi giao xe cho người này điều khiển chở bị cáo đi ăn khuya và khi cả 02 trên đường đi thì bị Công an kiểm tra bắt giữ. Riêng tên K, hoàn toàn không biết và cũng không liên quan gì đến số ma túy của bị cáo nên nay bị cáo thừa nhận chỉ có một mình bị cáo thực hiện hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Đồng thời, không có ý kiến gì về khối lượng ma túy đã giám định và việc giải quyết vật chứng.
Tại Cáo trạng số: 172/CT-VKS, ngày 16 tháng 6 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Phan Châu Đ ra trước Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh để xét xử về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận có ý kiến như sau: Bị cáo Phan Châu Đ đã thực hiện hành vi cất giữ số ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,6526g, loại MDMA và 1,3541g, loại Methamphetamine, MDMA, Nimetazepam (tổng cộng 2,0067g, loại MDMA, Methamphetamine, Nimetazepam) nhằm mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy nên cần phải xử bị cáo với mức án thật nghiêm. Tuy nhiên, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nghĩ nên xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu. Do đó, giữ nguyên quyết định đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Đ với mức án từ 02 năm đến 03 năm tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”. Về vật chứng, đề nghị tịch sung quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone và 01 chiếc xe môtô biển số 59L1-xxxxx; tịch thu tiêu hủy 01 gói ma túy đã giám định.
Bị cáo không tranh luận và bào chữa gì về hành vi đã bị truy tố, còn lời nói sau cùng thì xin giảm nhẹ mức hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra-Công an quận Bình Tân, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo Phan Châu Đ tại phiên tòa hôm nay cho thấy: Vào lúc 03 giờ ngày 10/3/2023, tại trước nhà số 295, đường D, phường An Lạc, quận Bình Tân. Bị cáo đã có hành vi cất giữ 01 gói nylon bên trong có 01 viên nén màu xám cùng với 01 mảnh vụn viên nén màu xám và 01 gói nylon in chữ Deadpood chứa chất bột màu vàng nhằm mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang. Theo Kết luận giám định số: 222/KL-KTHS, ngày 17/3/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự-Công an Thành phố Hồ Chí Minh thì, “01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Phan Châu Đ, Trần Anh T (người chứng kiến), Nguyễn Ngọc T (Điều tra viên) và hình dấu Công an phường An Lạc, quận Bình Tân”, gửi đến giám định, bên trong có “01 viên nén màu xám và 01 mảnh vụn viên nén màu xám trong 01 gói nylon “đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 0,6526g, loại MDMA” và “Bột màu vàng trong 01 gói nylon có in chữ Deadpood “là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,3541g, loại Methamphetamine, MDMA, Nimetazepam (tổng 03 chất ma túy đều ở thể rắn, có tổng khối lượng 2,0067g, loại MDMA, Methamphetamine, Nimetazepam). Do đó, bị cáo đã phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.
[3] Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai trước đây tại Cơ quan điều tra, lời khai của những người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ được, biên bản niêm phong, mở niêm phong, kết luận giám định khối lượng ma túy…nên đã đủ chứng cứ buộc tội bị cáo và mức án đề nghị của Kiểm sát viên vừa nêu trên là có cơ sở chấp nhận. Còn đối với tên Phạm T K, do không biết và cũng không liên quan gì đến hành vi phạm tội của bị cáo nên tên K không bị xử lý hình sự là có căn cứ; riêng đối với người thanh niên bán ma túy cho bị cáo, do không rõ lai lịch nên Cơ quan điều tra còn đang tiếp tục truy xét đến khi nào phát hiện được sẽ xử lý sau.
[4] Xét chất ma túy là loại chất kích thích do Nhà nước độc quyền quản lý, nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển và mua bán. Bị cáo nhận thức được việc làm của mình là sai và vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, mang tính chất liều lĩnh, xem thường pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương và có thể là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác nên cần phải xử bị cáo với mức án thật nghiêm thì mới có đủ sức giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần được xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng”; do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, bị cáo làm nghề tự do và không có điều kiện kinh tế nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về vật chứng: Đối 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, số thuê bao 090499xxxx-Phan Châu Đ của bị cáo, do có sử dụng liên lạc mua ma túy. Còn 01 chiếc xe môtô biển số 59L1-xxxxx-Phan Châu Đ, do anh Lý Cẩm H đứng tên sở hữu và đã làm hợp đồng ủy quyền toàn quyền quyết định chiếc xe này lại cho chị Phan Thị H (có công chứng); tương tự, chị H ủy quyền tiếp lại cho anh Lê Văn Ng; sau đó, anh Ng bán xe cho anh Phan Văn Q rồi anh Quốc bán lại cho bị cáo, nhưng chưa làm thủ tục sang tên và bị cáo sử dụng làm phương đi lại lúc bị bắt nên cần tịch thu 02 loại tài sản này của bị cáo để sung quỹ Nhà nước. Riêng 01 gói niêm phong có ma túy đã giám định-có chữ ký của Phan Châu Đ là chất kích thích, Nhà nước cấm sử dụng nên cần tịch thu để tiêu hủy.
[7] Bị cáo Phan Châu Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về căn cứ điều luật và xử phạt:
- Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
- Xử phạt bị cáo Phan Châu Đ 02 (hai) năm tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 10-3-2023.
2. Về vật chứng: Căn cứ vào Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.
Tịch thu sung quỹ Nhà nước gồm: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, số thuê bao 090499xxxx-Phan Châu Đ và 01 chiếc xe môtô biển số 59L1-xxxxx-Phan Châu Đ. Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong có ma túy đã giám định-có chữ ký của Phan Châu Đ.
(Vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân đang tạm giữ theo Phiếu nhập kho số: NK23/165TAM, ngày 07/6/2023)
3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Bị cáo Phan Châu Đ phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào các điều 331 và 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.
Bị cáo Phan Châu Đ có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 143/2023/HS-ST
Số hiệu: | 143/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Bình Tân - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/07/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về