Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 143/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 143/2022/HS-ST NGÀY 21/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 7 năm 2022 tại Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 124/2022/TLST-HS ngày 22 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 142/2022/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 7 năm 2022 đối với các bị cáo:

1/ Họ và tên: Lê Ngọc T; Giới tính: Nam; Sinh năm 1994 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi thường trú: Ấp 4, xã P, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: Như trên; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ văn hóa: 7/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn H (đã chết) và bà Bùi Thị T; Bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị Ngọc Tr và có 02 con sinh năm 2016 và năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/01/2022. (Có mặt) 2/ Họ và tên: Phạm Tuấn T1; Giới tính: Nam; Sinh năm 1991 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi thường trú: ấp 4, xã P, huyện B, TP. Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: Như trên; Nghề nghiệp: Lơ xe; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn N (đã chết) và bà Đặng Thị P; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/01/2022. (Có mặt) * Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/ Ông Phan Trường T2, sinh năm 1975; Nơi cư trú: 675A/28 B, Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt) 2/ Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1962; Nơi cư trú: Ấp R, xã L, huyện C, tỉnh Long An. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 00 giờ 15 phút ngày 05/01/2022, Tổ tuần tra Công an xã P, huyện B kết hợp Trung đoàn cảnh sát cơ động E29 Bộ Công an tuần tra đến trước địa chỉ B5/119B, Quốc lộ 50, ấp 2, xã P, huyện B phát hiện Lê Ngọc T đang điều khiển xe mô tô biển số 62L1-052.96 chở Phan Trường T2 và Phạm Tuấn T1 có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành ngừng xe và kiểm tra. Qua kiểm tra Cơ quan Công an phát hiện trong túi quần bên trái phía trước của Phạm Tuấn T1 đang mặc có 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể không màu. T1 và T khai nhận là ma túy đá T mua đưa cho T1 cất giữ để cả hai cùng sử dụng nên Cơ quan Công an đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T, T1 và thu giữ vật chứng. Sau đó chuyển các đối tượng cùng tang vật đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh để điều tra xử lý.

Kết luận giám định số 515/KLGĐ-MT ngày 10/01/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh xác định: Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m thu giữ của Phạm Tuấn T1, Lê Ngọc T qua giám định có khối lượng 0,2509g (không phẩy hai năm không chín gam) là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine.

Ti Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh, Lê Ngọc T và Phạm Tuấn T1 đều khai nhận là người nghiện ma túy (hàng đá) được khoảng hơn một năm. Vào tối ngày 04/01/2022, T và Phan Trường T2 ngồi nhậu trên ghe gần nhà T thì T1 qua chơi. Do trước đó T1 từng sử dụng ma túy cùng T nên T rủ T1 đi mua ma túy đá về sử dụng chung, T1 đồng ý. Sau đó, T1 và T rủ T2 đi ăn tối cùng. T1 đưa số điện thoại 090.9217.215 của người thanh niên (không rõ lai lịch) bán ma túy để T gọi đặt mua 01 (một) gói ma túy đá giá 150.000 đồng, người bán đồng ý và hẹn giao dịch tại khu vực “xóm ve chai” thuộc ấp 4, xã P, huyện B. Sau đó, T điều khiển xe mô tô biển số 62L1-052.96 chở T2 và T1 ra trước địa chỉ D3/63 ấp 4, xã P, huyện B. Lúc này T1 mượn xe của T đi mua thuốc lá, còn T2 thì đi một đoạn để tìm chỗ vệ sinh, nên chỉ còn T đứng đợi và mua trực tiếp từ người thanh niên 01 gói ma túy đá giá 150.000 đồng. Sau khi mua xong ma túy, T1 quay trở lại nên T đưa gói ma túy cho T1 cất giữ, T2 đi vệ sinh xong cũng quay lại nên cả ba lên xe trên đường đi về thì bị Cơ quan Công an kiểm tra phát hiện bắt quả tang. Qua xét nghiệm T và T1 có sử dụng ma túy tổng hợp loại Methamphetamine; còn T2 âm tính với ma túy.

Ông Phan Trường T2 khai nhận: Việc T và T1 mua ma túy đá và T1 cất giữ ma túy đá trong người T2 hoàn toàn không biết và không tham gia thỏa thuận, giúp sức và không liên quan gì đến số ma túy mà Cơ quan Công an thu giữ của Lê Ngọc T, Phạm Tuấn T1.

o trạng số 116/CT-VKS ngày 03/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đã truy tố các bị cáo T và T1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Ti phiên tòa:

c bị cáo Lê Ngọc T, Phạm Tuấn T1 khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đã truy tố; có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Các bị cáo không tranh luận và lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):

+ Xử phạt bị cáo Lê Ngọc T từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

+ Xử phạt bị cáo Phạm Tuấn T1 từ 15 tháng đến 18 tháng tù.

Đồng thời, đề nghị xử lý vật chứng theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Bình Chánh, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ thu thập được và kết quả tranh luận tại phiên tòa, có đủ căn cứ kết luận hành vi phạm tội cụ thể của các bị cáo như sau: Sáng ngày 05/01/2022, các bị cáo Lê Ngọc T và Phạm Tuấn T1 có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy có trọng lượng 0,2509g ở thể rắn, loại Methamphetamine thì bị bắt quả tang tại trước địa chỉ B5/119B, Quốc lộ 50, ấp 2, xã P, huyện B, số ma túy này các bị cáo tàng trữ để sử dụng. Như vậy có đủ căn cứ để kết luận các bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Đây là vụ án có đồng phạm giản đơn, trong đó bị cáo T là người chủ động rủ bị cáo T1 mua ma túy về sử dụng chung, trực tiếp liên hệ để mua, trả tiền và nhận ma túy đưa cho bị cáo T1 cất giữ. Còn bị cáo T1 là đồng phạm giữ vai trò giúp sức tích cực, cung cấp số điện thoại người bán ma túy, lấy phương tiện của mình chở T đi mua ma túy và là người trực tiếp cất giữ ma túy để cùng sử dụng. Hội đồng xét xử xét thấy vai trò tham gia của bị cáo T1 có phần hạn chế hơn so với bị cáo T.

Đi với việc Lê Ngọc T, Phạm Tuấn T1 khai nhận đã nhiều lần mua ma túy về sử dụng chung, tuy nhiên quá trình điều tra các bị can không nhớ rõ thời gian, địa điểm sử dụng chung ma túy và không có tài liệu chứng cứ chứng minh các bị cáo đã tàng trữ trái phép chất ma túy trước đó nên chưa đủ căn cứ xử lý các bị cáo theo tình tiết định khung hình phạt “phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và có nhân thân tốt nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo. Các bị cáo đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Đối với Phan Trường T2, quá trình điều tra do T2 chỉ đi theo T và T1 ăn tối, T2 không biết, không tham gia việc mua ma túy và không có liên quan đến số ma túy Công an thu giữ; Các bị cáo cũng xác nhận quá trình liên hệ mua ma túy sử dụng thì các bị cáo không bàn bạc, không nói cho T2 biết nên không đủ căn cứ xử lý trách nhiệm hình sự đối với T2.

Đối với người thanh niên (không rõ lai lịch) đã bán ma túy cho T, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh tiếp tục xác minh, khi làm rõ xử lý sau.

[5] Về xử lý vật chứng:

- 01 đĩa DVD ghi âm ghi hình Lê Ngọc T, Phạm Tuấn T1: Xét thấy cần tiếp tục lưu theo hồ sơ vụ án.

- 01 gói nylon chứa tinh thể không màu chứa ma túy còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động hiệu Realme màu đen cùng 02 sim thu giữ của T1; 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu đen, số Imei 354565/11/548156/0, cùng 02 sim thu giữ của T: Các bị cáo sử dụng liên hệ mua ma túy và hẹn nhau tàng trữ, sử dụng ma túy nên tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước.

- 01 xe mô tô biển số 62L1-05296, số khung: RLCS5C640BY551474, số máy:

5C64-551487. Qua xác minh biển số xe mô tô trên do ông Nguyễn Văn N (là cha vợ của T) đứng tên chủ sở hữu, ông N giao xe mô tô trên cho T sử dụng làm phương tiện đi lại từ năm 2011 cho đến nay. Ông N không biết T sử dụng xe này để phạm tội và có yêu cầu nhận lại xe nên trả lại xe này cho ông N.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

* Tuyên bố các bị cáo Lê Ngọc T, Phạm Tuấn T1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

* Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Lê Ngọc T 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/01/2022.

Xử phạt bị cáo Phạm Tuấn T1 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/01/2022.

* Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017); Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Lưu kèm theo hồ sơ vụ án: 01 đĩa DVD ghi âm ghi hình các bị cáo (vật chứng này đang lưu giữ trong hồ sơ vụ án) - Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong bên ngoài ghi vụ số 128/22, có chữ ký của các bị cáo, hình dấu của Công an xã Phong Phú, bên trong chứa tinh thể không màu là ma túy còn lại sau giám định.

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Realme màu đen (cùng 02 sim); 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu đen, số Imei 354565/11/548156/0 (cùng 02 sim).

- Trả lại cho ông Nguyễn Văn N: 01 xe mô tô biển số 62L1-05296, số khung: RLCS5C640BY551474, số máy: 5C64-551487.

(Các vật chứng nêu trên (trừ 01 đĩa DVD ghi âm ghi hình) đang giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh theo Biên bản giao nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 16/6/2022 giữa Công an huyện Bình Chánh và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh và Phiếu nhập kho ngày 16/6/2022)

* Căn cứ vào các Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Về án phí: Mỗi bị cáo chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

126
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 143/2022/HS-ST

Số hiệu:143/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về