Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 14/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LƯƠNG SƠN, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 14/2024/HS-ST NGÀY 07/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 3 năm 2024, tại Trụ sở toà án nhân dân huyện S, tỉnh H mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 10/2024/TLST-HS ngày 31 tháng 01 năm 2024 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12 /2024/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 3 năm 2024 đối với bị cáo:

Bùi Văn T  (tên gọi khác: không ), sinh ngày 04 tháng 10 năm 1986; Nơi cư trú: Thôn Ch , xã H, huyện K tỉnh H; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Mường; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn L, đã chết và bà Bùi Thị D ( SN 1954), có vợ Bùi Thị Đ; ( SN 1988) , con Bùi Phương L( SN 2009) Hiện cùng trú tại xóm Chỉ Ngoài, xã Hùng Sơn, huyện K, tỉnh H Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 09/11/2023 tạm giam từ ngày 17/11/2023, hiện bị cáo đang chấp hành lệnh tạm giam của CQCSĐT Công an huyện S, tỉnh B được trích xuất, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ ngày 09/11/2023, Bùi Văn T  đang điều khiển xe mô tô đi trên đường qua xóm Bến Cuối, xã Liên Sơn, huyện S, tỉnh B thì bị lực lượng chức năng phát hiện thấy có nhiều biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra hành chính và phát hiện trong ví da ở túi sau bên phải quần mà Tđang mặc có 02 gói giấy chứa chất màu trắng được quấn băng keo màu đen nghi là ma tuý nên đã tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng.

Tại cơ quan điều tra Bùi Văn T  khai nhận: Khoảng 12 giờ trưa ngày 08/11/2023 trước cổng Công ty xi mănng Vĩnh Sơn tại B, xã Li, huyện L, Tgặp và hỏi mua 1.000.000đồng tiền ma tuý của một người đàn ông không biết tên tuổi địa chỉ. Đến khoảng 01 giờ cùng ngày thì người đàn ông này quay lại đưa cho T02 gói giấy chứa chất màu trắng được quấn bằng keo màu đen Tđã cất vào ví để dùng dần cho đến khi bị phát hiện.

Vật chứng thu giữ:

-02 gói chứa chất màu trắng, kí hiệu lần lượt là G1,G2 được niêm phong trong phong bì.

-01 xe mô tô hiệu Honda Wave, BKS : 28B1 – xxxxx và đăng ký xe mô tô mang tên Bùi Văn T .

-01 căn cước Công dân mang tên Bùi Văn T  - 01 điện thoại di động hiệu OpPO A55, màu đen ( đã qua sử dụng ) Tại bản kết luận giám định số: 463 ngày 17/11/2023 của Phòng ký thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận : Chất bột màu trắng có trong gói G1, G2 đã được niêm phong trong phong bì gửi giám định ma tuý là loại Hẻoin trọng lượng là 0,42 gam.

Mẫu giám định còn lại hoàn trả cơ quan điều tra Công an huyện S là 0,31gam Hẻoin.

Đối với vật chứng không liên quan đến hành vi phạm tội CQCSĐT Công an huyện S đã trả lại cho bị cáo gồm :

-01 xe mô tô hiệu Honda Wave, BKS : 28B1 – xxxxx và đăng ký xe mô tô mang tên Bùi Văn T ; 01 căn cước Công dân mang tên Bùi Văn T ; 01 điện thoại di động hiệu OpPO A55, màu đen (đã qua sử dụng ) Cáo trạng số: 09 /CT-VKSLS ngày 30/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện S, tỉnh H truy tố Bùi Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện S, tỉnh H giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Bùi Văn T  và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Bùi Văn T  phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, và Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Văn T từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ từ ngày 09/11/2023 Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo;

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS và Điều 106 BLTTHS tịch thu tiểu huỷ 01 phong bì dán kín, mặt trước có chữ “ Bộ công an, Công an tỉnh B, mẫu vật chứng còn lại sau giám định vụ : Bùi Văn T , sinh năm 1986 có hành vi phạm tội về ma tuý. Sảy ra ngày 09/11/2023 tại xã Liên Sơn, S, H. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/02/2024 tại Chi cục Thi hành án huyện S, tỉnh H) Tại phiên tòa bị cáo Bùi Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố. Bị cáo đồng ý với tội danh, điều luật mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng, bị cáo đề nghị HĐXX xem xét đến nhân thân của bị cáo để bị cáo được hưởng hình phạt nhẹ nhất .

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, và các Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện S, điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân huyện S, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, Quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi và các Quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Bùi Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Xét lời nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên toà phù hợp với vật chứng thu giữ cùng các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa hôm nay. Như vậy HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 18 giờ ngày 09/11/2023, tại xóm Bến Cuối, xã Liên Sơn, huyện S, tỉnh H. Bùi Văn T bị lực lượng chức năng kiểm tra hành chính phát hiện trong ví da để trong túi quần bên phải Bùi Văn T có 02 gói hêroin trọng lượng 0,42 gam. Khi bị bắt Bùi Văn T khai nhận, bị cáo tàng trữ ma tuý là để sử dụng dần cho bản thân. Như vậy Hành vi của bị cáo Bùi Văn T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện S truy tố là đúng người, đúng tội và có căn cứ.

[3] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Bị cáo Bùi Văn T là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự nhưng do nghiện ma túy nên ngày 09/11/2023 bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Hành vi vi phạm của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây mất trật tự an toàn xã hội, hủy hoại sức khỏe của người sử dụng, ảnh hưởng đến giống nòi và còn là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Nên phải xử lý nghiêm khắc nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết định khung hình phạt: Bị cáo tàng trữ 0,42 gam chất ma túy, loại heroin thuộc tình tiết định khung tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

[5] Về các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân và hình phạt đối với bị cáo:

Bị cáo Bùi Văn T  không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, trong giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, ông nội của bị cáo là liệt sĩ hy sinh trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự cần xem xét áp dụng cho bị cáo.

Căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. HĐXX xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng do đó cần áp dụng Điều 38 BLHS để cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định, không có tài sản do đó không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 BLHS.

[7] Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 BLHS và Điều 106 BLTTHS.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì dán kín, mặt trước có chữ “ Bộ công an, Công an tỉnh B, mẫu vật chứng còn lại sau giám định vụ : Bùi Văn T , sinh năm 1986 có hành vi phạm tội về ma tuý. Sảy ra ngày 09/11/2023 tại xã Liên Sơn, S, H. ( Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/02/2024 tại Chi cục Thi hành án huyện S, tỉnh H) Đối với các vật chứng gồm : -01 xe mô tô hiệu Honda Wave, BKS : 28B1 – xxxxx và đăng ký xe mô tô mang tên Bùi Văn T .; 01 căn cước Công dân mang tên Bùi Văn T ; 01 điện thoại di động hiệu OpPO A55, màu đen (đã qua sử dụng) Cơ quan điều tra đã trả lại cho bị cáo, tại phiên toà bị cáo xác nhận đã nhận đủ, không đè nghị gì thêm nên Hội đồng xét xử không xét [8] Về án phí: Bị cáo Bùi Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 ; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1.Tuyên bố : Bị cáo Bùi Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt : Bị cáo Bùi Văn T 12 ( Mười hai ) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 09/11/2023.

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS và Điều 106 BLTTHS.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì dán kín, mặt trước có chữ “ Bộ công an, Công an tỉnh B, mẫu vật chứng còn lại sau giám định vụ : Bùi Văn T , sinh năm 1986 có hành vi phạm tội về ma tuý. Sảy ra ngày 09/11/2023 tại xã Liên Sơn, S, H. ( Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/02/2024 tại Chi cục Thi hành án huyện S, tỉnh H)

3.Về án phí: Bị cáo Bùi Văn T phải chịu 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4.Về quyền kháng cáo: Bị cáo Bùi Văn T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 14/2024/HS-ST

Số hiệu:14/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lương Sơn - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về