Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 14/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 14/2022/HS-ST NGÀY 30/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 30 tháng 3 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 14/2022/HSST ngày 02 tháng 3 năm 2022, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2022/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 3 năm 2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Thào Thị S; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 01/01/1981 tại huyện B, tỉnh Sơn La; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: bản C, xã H, huyện B, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa: Không biết chữ; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng, đoàn thể: Không; Con ông: Thào A D (đã chết) và bà Vàng Thị P, sinh năm 1946; Bị cáo có chồng Hạng A P, sinh năm 1982 và có 04 con, con lớn nhất 23 tuổi, con nhỏ nhất 15 tuổi, hiện nay đều cư trú tại bản C, xã H, huyện B, tỉnh Sơn La; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 14/9/2020, Thào Thị Sâu bị UBND xã H Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã với hình thức tự cai nghiện tại gia đình, thời hạn 03 tháng; Nhân thân: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giam giữ từ ngày 05/01/2022 đến nay, có mặt.

Người phiên dịch: Thào A C; Sinh năm 1996; Địa chỉ: Bản T, xã T, huyện B, tỉnh Sơn La, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 05/01/2022 Thào Thị S đi bộ một mình từ lán nương tại bản C, xã H, huyện B, tỉnh Sơn La xuống đường đi vào trung tâm xã H để tìm gà của gia đình do bị mất. Khi đang tìm gà bên cạnh đường S gặp một người đàn ông dân tộc M không quen biết đang đi xe máy không rõ biển kiểm soát đến hỏi S có mua ma túy không, S nói có và lấy từ trong túi áo bên trái đang mặc ra 2.000.000 đồng đưa cho người đàn ông, người đàn ông cầm tiền đưa cho S 01 gói nilon màu xanh, bên trong chứa Heroine. Mua bán xong người đàn ông đi đâu, làm gì Sâu không biết, còn S cất gói Heroine vừa mua được cho vào trong túi áo bên phải đang mặc đi bộ về lán nương. Đến khoảng 10 giờ 00 phút cùng ngày, S đem gói ma túy vừa mua được ra chuẩn bị tách một ít để sử dụng thì bị tổ công tác Công an huyện B kiểm tra bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng.

Về vật chứng của vụ án gồm: 01 gói nilon màu xanh, bên trong chứa chất bột màu trắng nghi là Heroine.

Ngày 05/01/2022, Cơ quan CSĐT Công an huyện B đã phối hợp với Giám định viên Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, Viện kiểm sát nhân dân huyện B tiến hành mở niêm phong cân tịnh trọng lượng ma túy thu giữ được của Thào Thị S. Kết quả như sau:

Số chất bột màu trắng trong gói nilon màu màu xanh có khối lượng 3,07 gam. Cơ quan CSĐT Công an huyện B niêm phong vật chứng lấy mẫu ký hiệu S.

Ngày 07/01/2022, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La ban hành bản Kết luận giám định số 226, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu S là ma túy, loại Heroine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 3,07 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 3,07 gam, loại Heroine”.

Vật chứng còn lại của vụ án: 01 phong bì do Công an huyện B phát hành được niêm phong theo quy định, bên trong gồm: 01 mảnh nilon màu xanh và phong bì niêm phong ban đầu; 01 phong bì của Phòng KTHS Công an tỉnh Sơn La được niêm phong theo quy định, bên trong gồm có: 01 phong bì niêm phong gửi giám định và chất bột màu trắng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu S không sử dụng hết trong quá trình giám định, có khối lượng là 1,73 gam.

Tại phiên tòa công khai bị cáo Thào Thị S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với nội dung cáo trạng, phù hợp với các tài liệu chứng cứ, trong hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa không phát sinh tình tiết mới.

Tại bản cáo trạng số 05/CT-VKS-BY ngày 28 tháng 02 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, truy tố bị cáo Thào Thị phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Thào Thị S mức án từ 36 đến 42 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Đề nghị tịch thu tiêu hủy số vật chứng gồm: 01 mảnh nilon màu xanh và phong bì niêm phong ban đầu; 01 phong bì của Phòng KTHS Công an tỉnh Sơn La được niêm phong theo quy định, bên trong gồm có: 01 phong bì niêm phong gửi giám định và chất bột màu trắng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu S không sử dụng hết trong quá trình giám định, có khối lượng là 1,73 gam.

Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Thào Thị S.

Ý kiến của bị cáo Thào Thị S tự bào chữa: Bị cáo nhất trí với bản cáo trạng, luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo nhận thức hành vi của bị cáo là sai, mong hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất, để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo Thào Thị S, có đủ cơ sở để khẳng định: Ngày 05/01/2022, bị cáo Thào Thị S tàng trữ trái phép 3,07 gam Heroine nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân nghiện hút, bị tổ công tác Công an huyện B bắt quả tang tại bản C, xã H, huyện B, tỉnh Sơn La. Tiến hành giám định chất ma túy thu được của bị cáo Thào Thị S kết quả giám định “là ma túy, loại Heroine”.

Xét hành vi trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an của địa phương và ảnh hưởng đến công tác đấu tranh phòng chống tội phạm tại địa phương. Bản thân bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hậu quả của hành vi, nhưng bị cáo đã cố ý thực hiện tội phạm với động cơ mục đích cá nhân.Trên cơ sở đó đủ điều kiện căn cứ kết luận hành vi trên của bị cáo Thào Thị S đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015: “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:...c) Heroine, Cocaine, Methamphetamin, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng 0,1 gam đến dưới 5 gam...” như cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát là có căn cứ, việc xét xử bị cáo là chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật không oan sai.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội của bị cáo Thào Thị Sâu: Bị cáo đã đi mua và cất giấu trái phép 3,07gam Heroine để sử dụng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 có mức hình phạt tù từ 1 năm đến 5 năm.

[4] Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Thào Thị Sâu: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng nhưng là đối tượng nghiện ma túy, có tiền sự: Ngày 14/9/2020, Thào Thị S bị UBND xã H Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã với hình thức tự cai nghiện tại gia đình, thời hạn 03 tháng, bị cáo không lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân mà còn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu, vùng xa, nhận thức và am hiểu pháp luật còn hạn chế, gia đình thuộc diện hộ nghèo có hoàn cảnh khó khăn. Nên bị cáo Thào Thị Sâu được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Từ sự phân tích trên, Hội đồng xét xử xét cần áp dụng một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân của bị cáo. Đồng thời cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ điều kiện giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội, đáp ứng yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm tại địa phương trong giai đoạn hiện nay.

[6] Bị cáo đang bị tạm giam cần tiếp tục tạm giam theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Thời gian tạm giam được tính vào thời gian thụ hình.

[7] Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, do đó,bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo làm nghề trồng trọt, thu nhập thấp, là phụ nữ, gia đình thuộc diện hộ nghèo của xã H, huyện B, điều kiện kinh tế khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về vật chứng của vụ án: Đối với số vật chứng gồm: 01 mảnh nilon màu xanh và phong bì niêm phong ban đầu; 01 phong bì của Phòng KTHS Công an tỉnh Sơn La được niêm phong theo quy định, bên trong gồm có: 01 phong bì niêm phong gửi giám định và chất bột màu trắng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu S không sử dụng hết trong quá trình giám định, có khối lượng là 1,73 gam (số vật chứng trên đã được niêm phong) là công cụ, phương tiện sử dụng vào việc phạm tội, vật chứng không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy. Vì vậy, cần căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để xử lý.

[9] Đối với nguồn gốc Heroine bị cáo S khai mua của một người đàn ông dân tộc Mông, bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ ở đâu. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng không xác định được nhân thân, lai lịch của người này nên không có căn cứ, cơ sở để xử lý.

[10] Về án phí: Quyết định 612/QĐ-UBDT ngày 16/9/2021 của Ủy ban dân tộc phê duyệt danh sách thôn đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025, thì bị cáo Thào Thị S là người dân tộc thiểu số sinh sống tại bản C, xã H, huyện B, tỉnh Sơn La là bản có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; Gia đình bị cáo Thào Thị S là hộ nghèo thuộc trường hợp được miễn án phí theo quy định tại điểm đ, khoản 1, Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu,miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.tại phiên toà bị cáo xin được miễn án phí. Tòa cần xem xét miễn án phí cho bị cáo.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015:

Tuyên bố bị cáo Thào Thị S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Thào Thị S 40 (Bốn mươi) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời gian thụ hình tính từ ngày 05/01/2022 là ngày bị bắt tạm giam giữ đối với bị cáo.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Tuyên tịch thu tiêu hủy số vật chứng gồm: 01 mảnh nilon màu xanh và phong bì niêm phong ban đầu; 01 phong bì của Phòng KTHS Công an tỉnh Sơn La được niêm phong theo quy định, bên trong gồm có: 01 phong bì niêm phong gửi giám định và chất bột màu trắng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu S không sử dụng hết trong quá trình giám định, có khối lượng là 1,73 gam (Chi tiết theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản giữa Công an huyện B và Chi cục Thi hành án dân sự huyện B ngày 01/3/2022).

3. Về Án phí: Áp dụng điểm đ, khoản 1, Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Thào Thị S.

Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 14/2022/HS-ST

Số hiệu:14/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Yên - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:30/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về