Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 14/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ PHONG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 14/2022/HS-ST NGÀY 12/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 4 năm 2022, tại Tòa án nhân dân huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 21/2022/TLST-HS ngày 18 tháng 3 năm 2022, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2022/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:

Vi Văn T; tên gọi khác: Không; sinh ngày 01/01/1990, tại huyện Q, tỉnh Nghệ An.

Nơi cư trú: Bản N, xã N, huyện Q, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Nguyên lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 9/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Vi Văn T; con bà: Vi Thị T; vợ: Sầm Thị H (Đã ly hôn); con: có 02 người; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 26/12/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh Nghệ An xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; bị cáo chấp hành xong hình phạt ngày 29/4/2014; bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/12/2021. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Vi Văn T: Ông Nguyễn Thái Q, Trợ giúp viên trợ giúp pháp lý, chi nhánh trợ giúp pháp lý số 2 thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nghệ An. Có mặt.

- Người chứng kiến: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1987; trú tại bản N, xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Ngày 30/12/2021 Vi Văn T đến xã Tri Lễ, huyện Quế Phong mua ma túy với một người không quen biết để sử dụng. Mua được ma túy bị cáo đi đến bản Na Niếng, xã Tri Lễ, huyện Quế Phong thì bị bắt quả tang. Thu của Vi Văn T 01 gói chất bột màu trắng; 03 gói bên trong chứa nhiều viên màu hồng và 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA-BLADE màu đỏ, biển kiểm soát 37F1-130.36.

Bản kết luận giám định số 102/KL- PC09( Đ2-MT) ngày 05/01/2022 của phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận:

- 03 (Ba) mẫu viên nén màu hồng (ký hiệu M1, M2, M3) thu giữ của Vi Văn T gửi tới giám định đều là ma túy (Methamphetamine). Số viên nén màu hồng thu giữ của Vi Văn T gửi tới giám định có tổng khối lượng 57,14 g (Năm mươi bảy phẩy mười bốn gam).

- Mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Vi Văn T gửi tới giám định là ma túy (Heroine). Số chất bột màu trắng thu giữ của Vi Văn T gửi tới giám định có khối lượng 4,63 g (Bốn phẩy sáu mươi ba gam).

Tại phiên tòa bị cáo Vi Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Cụ thể: Ngày 30/12/2021 tại bản Na Niếng, xã Tri Lễ, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An, Vi Văn T đang cất giấu trái phép chất ma túy thì bị bắt quả tang, thu 4,63 gam Heroine và 57,14 gam Methamphetamine. Mục đích bị cáo cất giấu ma túy là để sử dụng.

Cáo trạng số 26/CT-VKS- HS ngày 16/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo Vi Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm h khoản 3 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Đối với người bán trái phép chất ma túy cho bị cáo, do không xác minh được họ tên và địa chỉ cụ thể, nên không có cơ sở để điều tra xử lý.

Tại phiên tòa, đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Phong vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như bản cáo trạng đã kết luận và đề nghị áp dụng điểm h khoản 3 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự; xử phạt: Bị cáo Vi Văn T từ 12 năm 06 tháng đến 13 năm tù. Đề nghị tịch thu sung quỹ nhà nước chiếc xe máy; tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại; miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Người bào chữa không tranh luận về tội danh và đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ và xử phạt Vi Văn T từ 11 năm 06 tháng đến 12 năm tù; miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Trả lại chiếc xe máy cho bị cáo.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quế Phong, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Phong, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, người bào chữa không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Mặc dù không được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp phép, nhưng ngày 30/12/2021, tại bản Na niếng, xã Tri Lễ, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An, bị cáo Vi Văn T đang cất giấu trái phép chất ma túy thì bị bắt quả tang. Thu của bị cáo 4,63 gam Heroine và 57,14 gam Methamphetamine. Bị cáo tàng trữ ma túy không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến sự độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước. Do đó bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm h khoản 3 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết nhân thân, tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo không những xâm phạm trực tiếp đến sự độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, mà còn làm ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe, nòi giống của con người, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng; bị cáo có nhân thân xấu. Vì vậy cần xét xử nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người tốt có ích cho xã hội, răn đe và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên sau khi phạm tội bị cáo khai báo thành khẩn, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[4] Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Phong đề nghị xử phạt bị cáo Vi Văn T từ 12 năm 06 tháng đến 13 năm tù là hợp lý. Người bào chữa đề nghị xử phạt bị cáo Vi Văn T từ 11 năm 06 tháng đến 12 năm tù là thấp so với số lượng ma túy thu giữ và nhân thân của bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, bị cáo không có tài sản gì đáng giá. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: Đối với 4,63 gam Heroine và 57,14 gam Methamphetamin, cơ quan điều tra lấy đi giám định chất ma túy 0,5 gam Heroine và 1,5 gam Methamphetamine; còn lại 4,13 gam Heroine và 55,64 gam Methamphetamine; đây là vật nhà nước cấm lưu hành, nên cần tịch thu tiêu hủy. Đối với chiếc xe máy bị cáo chỉ sử dụng làm phương tiện đi lại, không liên quan đến hành vi phạm tội, nên cần trả lại cho bị cáo.

[7] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Vi Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm h khoản 3 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Phạt Vi Văn T 12 (Mười hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 30/12/2021.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ một phong bì bên trong đựng 4,13 (Bốn phẩy mười ba) gam Heroine; 55,64 (Năm mươi lăm phẩy sáu mươi bốn) gam Methamphetamine; vỏ gói ma túy thu giữ của bị cáo Vi Văn T và phong bì thu giữ vật chứng ban đầu. Trả lại cho bị cáo Vi Văn T 01 (Một) chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA-BLADE màu đỏ, biển kiểm soát 37F1-130.36.

Chi tiết vật chứng được ghi cụ thể trong biên bản giao nhận ngày 18/3/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Quế Phong với Chi cục thi hành án dân sự huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An.

Căn cứ vào Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Vi Văn T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Vi Văn T có quyền kháng cáo bản án lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

128
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 14/2022/HS-ST

Số hiệu:14/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Phong - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về