Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 14/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MINH HOÁ, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 14/2022/HS-ST NGÀY 21/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 13/2022/TLST- HS ngày 23 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 4 năm 2022 đối với các bị cáo:

1/. H Th, sinh ngày: 10 tháng 12 năm 2000 tại: Tr H, M H, Qu B. Nơi cư trú: Bản L Tr 1, xã Tr H, huyện M H, tỉnh Qu B; nghề nghiệp: Sản xuất nông nghiệp; trình độ văn hoá: 03/12; dân tộc: Bru Vân Kiều; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông H H, sinh năm 1955 và con bà H Ch, sinh năm 1960, có vợ là H Th Ph, sinh năm 1997, con: Chưa có; tiền sự: Không; tiền án: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/01/2022 đến ngày 18/01/2022 chuyển tạm giam cho đến nay, có mặt.

2/. H N, sinh ngày: 04 tháng 02 năm 2001 tại: Tr H, M H, Qu B. Nơi cư trú: Bản L Tr 1, xã Tr H, huyện M H, tỉnh Qu B; nghề nghiệp: Sản xuất nông nghiệp; trình độ văn hoá: 09/12; dân tộc: Bru Vân Kiều; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông H Th, sinh năm 1981 và con bà H Th N, sinh năm 1981, vợ, con: Chưa có; tiền sự: Không; tiền án: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/01/2022 đến ngày 18/01/2022 chuyển tạm giam cho đến nay, có mặt.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Anh H M – sinh năm 2006 Địa chỉ: Bản K O, xã Tr H, huyện M H, tỉnh Qu B.

Người đại diện theo pháp luật của H M: Ông H M – sinh năm 1978 Địa chỉ: Bản K O, xã Tr H, huyện M H, tỉnh Qu B

* Người làm chứng:

Bà Đ Th Th – sinh năm 1965 Địa chỉ: Thôn Th L, xã H Th, huyện M H, tỉnh Qu B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14 giờ ngày 09/01/2022, H Th điều khiển xe mô tô BKS: 73C1 – 000... nhãn hiệu YAMAHA, loại xe Sirius, màu sơn đen đỏ đến nhà của H N ở cùng bản rủ H N đi mua ma túy về để sử dụng. N đồng ý. Trên đường đi cả hai đem chiếc điện thoại di động Oppo A3S của Th cầm cố cho bà Đ Th Th ở thôn Th L, xã H Th, huyện M H lấy 500.000 đồng để mua ma túy. Sau đó cả hai đi xuống cây xăng L Ng ở Ngã ba Kh V đổ xăng hết 20.000 đồng. Khi chạy xe đến khu vực cổng trường cấp 2-3 H T, Th và N thấy một nam thanh niên lạ mặt đứng bên đường, nghi có ma túy bán nên đã chạy lại hỏi “có ma túy bán không?”, nam thanh niên trả lời “có”. Th đưa số tiền 480.000 đồng còn lại cho nam thanh niên đó, còn nam thanh niên đưa cho Th 01 bao bì nhựa màu trắng có chữ Salonpas, bên trong có chứa 01 túi nilon trong suốt , bên trong túi nilon chứa 07 viên nén hình tròn, dạng thuốc tân dược, màu hồng. Th đưa ma túy cho N cất giấu rồi điều khiển xe mô tô chở N về lại xã Tr H để tìm nơi sử dụng. Khi về đến khu vực cầu Kh R, xã Tr H thì gặp tổ công tác Công an xã Tr H và Đồn biên phòng R M tuần tra kiểm soát, do hoảng sợ nên H Th đã dừng xe mô tô trên đường, còn H N thì vứt số ma túy vừa mua được đang cầm trên tay xuống đường rồi cùng nhau bỏ chạy. Tổ công tác tiến hành truy đuổi bắt 02 đối tượng, đồng thời lập biên bản vụ việc, thu giữ số tang vật liên quan (Mẫu ký hiệu giám định A).

Tại Bản kết luận giám định số 96/GĐ-PC09 ngày 14/01/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình, kết luận: Mẫu ký hiệu A gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,777g (không phẩy bảy trăm bảy bảy gam).

Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy, Số thứ tự: 323, Danh mục II, Nghị định số 73/2018/NĐ – CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ.

Về vật chứng vụ án:

- Số ma túy sau giám định bỏ vào 01 phong bì thư các mép dán kín, trên có ghi chữ “96/GĐ-PC09” “Mẫu ký hiệu A”, được niêm phong bằng các chữ ký của ông Lưu Đức Bình, Nguyễn Phương Tiến, Hoàng Khắc Tuấn, Nguyễn Quốc Huy, dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình và ngoài cùng dán băng dính trong suốt;

- 01 xe mô tô BKS: 73C1 – 000..., loại xe Sirius, màu đỏ đen, đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng chi tiết bên trong.

Cáo trạng số 12/CT-VKSMH ngày 23/3/2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện Minh Hoá quyết định truy tố các bị cáo H Th, H N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố cũng như đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo H Th từ 15 tháng đến 18 tháng tù.

Xử phạt bị cáo H N từ 12 tháng đến 16 tháng tù.

Áp dụng điểm a khoản 2; điểm b khoản 3 điều 106 bộ luật tố tụng hình sự tiêu hủy phong bì thư niêm phong.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Minh Hóa, Viện kiểm sát huyện Minh Hóa, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hành vi phạm tội: Mặc dù đã nhận thức rõ việc tàng trữ chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng H Th và H N vẫn đi mua ma túy gồm 07 viên ma túy tổng hợp có khối lượng là 0,777gam methamphetamin về tàng trữ mục đích sử dụng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội, lời nhận tội đó phù hợp với các chứng cứ tài liệu, lời khai người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng đã được thẩm tra tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ về thời gian, địa điểm, loại ma túy, khối lượng chất ma túy, ý kiến của Kiểm sát viên do đó đủ cơ sở để khẳng định các bị cáo H Th, H N phạm tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 BLHS năm 2015 sửa đôi bổ sung năm 2017.

[3] Hội đồng xét xử xét thấy H Th, H N là thanh niên có sức khỏe nhưng không chịu rèn luyện lao động mà ham chơi đã nghiện ma túy, nên mua ma túy tàng trữ mục đích sử dụng. Trong vụ án này, H Th là người khởi xướng và H N là đồng phạm tích cực tham gia. Hành vi của H Th và H N đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý của nhà nước đối với các chất ma túy hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội cần được xử lý nghiêm.

Vì vậy cần áp dụng điểm c khoản 1 điều 249 BLHS để tuyên cho các bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội mà các bị cáo gây ra, đồng thời cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là cần thiết để cải tạo các bị cáo thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

Tuy nhiên hội đồng xét xử cần xem xét cho các bị cáo H Th và H N quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo ăn năn hối cải. Vì vậy cần áp dụng điểm s khoản 1 điều 51 BLHS để giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

[4] Vật chứng vụ án:

Đối với chiếc xe mô tô BKS 73C1-000.. nhãn hiệu Yamaha loại xe Sirius là tang vật vụ án xảy ra ngày 03/4/2017 tại thôn 6 xã E huyện E tỉnh Đ nên ngày 02/3/2022 cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Minh Hóa đã ra quyết định tách tài liệu vật chứng trong vụ án khác cho cơ quan có thẩm quyền. Đối với 01 (một) phong bì thư các mép dán kín trên có ghi chữa “96GĐ-PC09” “mẫu ký hiệu A” được niêm phong bàng các chữ ký của ông Lưu Đức Bình, Nguyễn Phương Tiến, Hoàng Khắc Tuấn, Nguyễn Quốc Huy có dấu của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình và ngoài cùng dán băng dính trong suốt, đây là vật chứng cấm lưu hành cần áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu hủy.

Trong vụ án này có nam thanh niên bán ma túy cho Th và N nhưng không biết tên tuổi địa chỉ nên cơ quan điều tra không có cơ sở để xác minh đối tượng. Đối với chị Đ Th Th cho H Th cầm cố điện thoại di động nhưng chị Th không biết Th mua ma túy và Viện kiểm sát nhân dân huyện Minh Hóa không truy cứu trách nhiệm hình sự Án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo H Th và H N phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo H Th 15 tháng tù, thời gian tính từ ngày tạm giữ tạm giam ngày 10/01/2022; Xử phạt bị cáo H N 12 tháng tù, thời gian tính từ ngày tạm giữ tạm giam ngày 09/01/2022.

Tiếp tục tạm giam các bị cáo H Th và H N 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm theo quyết định của hội đồng xét xử.

2. Về vật chứng vụ án:

Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì thư các mép dán kín trên có ghi chữa “96GĐ-PC09” “mẫu ký hiệu A” được niêm phong bàng các chứ ký của ông Lưu Đức B, Nguyễn Phương T, Hoàng Khắc T, Nguyễn Quốc H có dấu của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình và ngoài cùng dán băng dính.

3. Án phí: Các bị cáo H Th, H N mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

Án xử công khai có mặt bị cáo. Tuyên bố bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (21/4/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 14/2022/HS-ST

Số hiệu:14/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Minh Hóa - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về