Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 14/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ K, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 14/2022/HS-ST NGÀY 25/02/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 25 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố K xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 05/2022/HSST ngày 21 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2022/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Quốc V, sinh năm 1991; nơi sinh: thành phố K, tỉnh An Giang; nơi cư trú: tổ 10, khóm C, phường P, thành phố K, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: sửa xe mô tô; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh: giới tính: nam; tôn giáo: đạo Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn U (chết) và bà Lâm Thị Thu H, sinh năm 1975; vợ là Nguyễn Thị Kim C (chết); con có 01 người, sinh năm 2016.

Tiền án: ngày 24/5/2019, bị Tòa án nhân dân thành phố K kết án 01 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đến ngày 22/01/2020 chấp hành xong.

Tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 13/12/2021 cho đến nay và có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Thái Đức G, sinh năm 1980; nơi cư trú: tổ 04, khóm L, phường P, thành phố K, tỉnh An Giang; (vắng mặt)

- Ông Châu Quang Bảo B, sinh năm 1983; nơi cư trú: tổ 17, ấp B, xã B, huyện CT, tỉnh An Giang; (có mặt).

Người chứng kiến:

- Ông Nguyễn Văn UN, sinh năm 1972; (vắng mặt)

- Ông Ngô Tường IN, sinh năm 1987; (vắng mặt)

- Ông Dương Tiến HN, sinh năm 1993; (vắng mặt)

Người làm chứng:

- Ông Nguyễn Văn NH, sinh năm 1951; (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 13/9/2021, lực lượng Công an thành phố K, trên đường tuần tra, đến ngã tư giao lộ Trưng Nữ Vương – Hoàng Diệu (tổ 09, khóm Châu Thới 3, phường P, thành phố K), phát hiện Nguyễn Quốc V đang điều khiển xe mô tô biển số 67L1-0974, có biểu hiện nghi vấn, lực lượng Công an yêu cầu dừng xe, V không chấp hành, điều khiển xe bỏ chạy đến nhà trọ “Tám Mai” (tổ 03, khóm Châu Thới 3, phường P) V bỏ lại xe, chạy bộ đến cuối dãy nhà trọ, lấy trong túi quần đang mặc 01 ví da và 01 túi nhựa trong suốt, một đầu có rãnh khóa, viền trắng, chứa chất bột màu trắng, ném bỏ xuống nền đất, bị lực lượng Công an phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng. V khai ma túy Heroine, mua của người thanh niên (không rõ lai lịch; tại khu vực tỉnh lộ 955A, khóm Vĩnh Tây 2, phường Núi Sam, thành phố K) giá 300.000 đồng, cất giấu để sử dụng.

Vật chứng thu giữ: 01 túi nhựa trong suốt, một đầu có rãnh khóa, viền trắng, chứa chất bột màu trắng (Kết luận giám định ma túy Heroine); 01 xe mô tô, nhãn hiệu Wave, biển số 67L1-0974; tiền Việt Nam 5.900.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, vỏ màu đen (tất cả vật chứng đã bàn giao Chi cục Thi hành án dân sự).

Căn cứ Kết luận giám định số 271/KLGT-PC09 (MT) ngày 27/9/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự – Công an tỉnh An Giang, ghi nhận: Mẫu gửi giám định là ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,8528 gam.

Ngày 07/12/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố K khởi tố vụ án, khởi tố bị can, đến ngày 13/12/2021 tạm giam Nguyễn Quốc V để điều tra xử lý.

Tại Cáo trạng số 12/CT-VKSCĐ-HS ngày 20/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố K truy tố Nguyễn Quốc V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Quốc V khai nhận do bản thân nghiện ma túy, để thỏa mãn cơn nghiện, V đã nhiều lần mua ma túy của người thanh niên (không rõ lai lịch) cất giấu để sử dụng, bị bắt quả tang như nội dung Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố.

Tại phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến. Trong lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Phát biểu luận tội, Kiểm sát viên trình bày:

Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở xác định bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, khối lượng ma túy bị bắt quả tang thu giữ tổng khối lượng 0,8528 gam Heroine. Cho nên, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố K truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước; gây ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội tại địa phương, ngoài ra bị cáo có 01 tiền án vào ngày 24/5/2019 bị Tòa án nhân dân thành phố K kết án 01 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” chấp hành xong chưa được xóa án tích lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, thuộc thành phần nhân dân lao động. Cho nên, đề nghị xem xét giảm nhẹ cho bị cáo khi lượng hình.

Về hình phạt chính, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc V từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt bổ sung, bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên đề nghị không áp dụng đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng, áp dụng Điều 46, 47, 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị tuyên tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định; đề nghị giao trả cho bị cáo số tiền Việt Nam 5.900.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng của bị cáo, không dùng vào việc mua ma túy; đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave, biển số 67L1- 0974 do chưa xác định rõ nguồn gốc, chủ sở hữu nên đề nghị giao cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố K để tiếp tục xác minh làm rõ xử lý theo luật định.

Trường hợp bị cáo V có hành vi ra đường trong trường hợp không thật sự cần thiết trong thời gian giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16/CT-TTg ngày 31/3/2021 của Thủ tướng chính phủ, Cơ quan điều tra chuyển đề nghị xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp.

Đối với người thanh niên (không rõ lai lịch) bán ma túy cho bị cáo V, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ, xử lý theo luật định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về tố tụng

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Điều tra viên; Viện kiểm sát; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện.

[2] Tòa án đã tống đạt hợp lệ giấy triệu tập tham gia phiên tòa nhưng tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Thái Đức G, người chứng kiến Nguyễn Văn UN, Ngô Tường IN, Dương Tiến NH; người làm chứng Nguyễn Văn NH vắng mặt; bị cáo không có ý kiến về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng này. Xét, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến, người làm chứng đã có lời khai trong quá trình điều tra nên việc vắng mặt tại phiên tòa, không gây trở ngại cho việc xét xử. Vì vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại Điều 292, Điều 293 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Về nội dung

[3] Hành vi phạm tội:

Tại phiên tòa, bị cáo V thừa nhận toàn bộ hành vi tàng trữ ma túy cất giấu để sử dụng vào ngày 13/9/2021 thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang. Ngoài ra, bị cáo khai nhận trước đó 06 lần mua ma túy của người thanh niên (không rõ lai lịch), mỗi lần 300.000 đồng; Xe mô tô biển số 67L1-0974 V mượn của Thái Đức G nói đi việc riêng, số tiền 5.900.000 đồng do V tích lũy, tiêu xài cá nhân; điện thoại di động của V sử dụng liên lạc gia đình, không dùng vào việc mua ma túy.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, phù hợp với các biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an phường P, thành phố K lập ngày 13/9/2021; Kết luận giám định số 2716/KLGT-PC09 (MT) ngày 27/9/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh An Giang; lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, người chứng kiến cùng những chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa.

Từ đó, có đủ căn cứ xác định bị cáo có hành vi tàng trữ trái pháp luật chất ma túy với tổng khối lượng là 0,8528 gam Heroine.

Bị cáo là người thành niên, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước nhưng vẫn cố ý thông qua việc cất giấu ma túy nhằm mục đích sử dụng như lời khai nhận tại phiên tòa. Vì vậy hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Cho nên, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố K truy tố bị cáo ra trước phiên tòa hôm nay và lời buộc tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố K đối với bị cáo tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của pháp luật.

[4] Về tính chất của vụ án:

Ma túy là chất gây nghiện, là mầm mống làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm khác, được Nhà nước độc quyền quản lý; đồng thời nghiêm cấm các hoạt động sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến trật tự quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy mà còn gây tác động xấu đến công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy, làm ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội tại địa phương.

Do đó, xét cần có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung trong xã hội như quan điểm đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát.

[5] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Ngày 24/5/2019 bị cáo V bị Tòa án nhân dân thành phố K kết án 01 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đến ngày 22/01/2020 chấp hành xong nhưng chưa được xóa án tích lại thực hiện hành vi phạm tội. Lẽ ra sau khi chấp hành xong hình phạt tù, bị cáo phải tích cực lao động để nuôi sống bản thân, trở thành người có ích cho xã hội, nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội, tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo V phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Bên cạnh đó, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, thuộc thành phần lao động. Vì vậy, cần xem xét là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Hình phạt bổ sung:

Bị cáo thuộc thành phần lao động, có hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Xét không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) phong bì màu trắng được niêm phong vụ số 271/KLGT-PC09 (MT) ngày 27/9/2021 in dấu tròn màu đỏ của Cơ quan Cánh sát điều tra Công an thành phố K, tỉnh An Giang và các chữ ký ghi tên Nguyễn Văn Ây, Nguyễn Thị Mỹ Hà. Bên trong có mẫu vật còn lại sau khi đã giám định, đây là vật cấm lưu hành. Xét, tịch thu tiêu hủy.

- Đối với tiền Việt Nam 5.900.000 đồng (Giấy nộp tiền số 4704502 ngày 29/12/2021) và 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, số imei: 354887084357005, Model: RM-1190 đã qua sử dụng, đây là tài sản cá nhân của bị cáo không liên quan đến tội phạm. Xét, giao trả lại cho bị cáo.

- Đối với 01 xe môt tô biển số 67L1-0974, nhãn hiệu Honda, loại Wave, màu sơn đỏ, V khai mượn của Thái Đức G nhưng G không cung cấp được giấy chứng nhận đăng ký chủ sở hữu, kết quả trích lục không thể hiện tên chủ sở hữu. Quá trình điều tra, G khai mua lại xe của người thanh niên tên Dũng. Cơ quan điều tra tiến hành xác minh nhưng không có người thanh niên tên Dũng. Do đó xét giao cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố K để tiếp tục xác minh làm rõ nguồn gốc, chủ sở hữu để có căn cứ xử lý theo luật định.

[8] Những vấn đề khác:

Trường hợp bị cáo V có hành vi ra đường trong trường hợp không thật sự cần thiết trong thời gian giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16/CT-TTg ngày 31/3/2021 của Thủ tướng chính phủ, Cơ quan điều tra chuyển đề nghị xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp.

Đối với người thanh niên (không rõ lai lịch) bán ma túy cho bị cáo V, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ, xử lý theo luật định.

[9] Án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quốc V phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt

Bị cáo Nguyễn Quốc V 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt của bị cáo được tính kể từ ngày bị bắt tạm giam, ngày 13/12/2021 (Ngày mười ba tháng mười hai năm hai nghìn không trăm hai mươi mốt) Căn cứ Điều 46, 47, 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì màu trắng được niêm phong vụ số 271/KLGT-PC09 (MT) ngày 27/9/2021 in dấu tròn màu đỏ của Cơ quan Cánh sát điều tra Công an thành phố K, tỉnh An Giang và các chữ ký ghi tên Nguyễn Văn Ây, Nguyễn Thị Mỹ Hà.

Giao trả cho bị cáo Nguyễn Quốc V: Tiền Việt Nam 5.900.000 đồng (Giấy nộp tiền số 4704502 ngày 29/12/2021); 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, số imei: 354887084357005, Model: RM-1190 đã qua sử dụng.

Giao cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố K: 01 xe môt tô biển số 67L1-0974, nhãn hiệu Honda, loại Wave, màu sơn đỏ, số máy: 006102, số khung: 006102, xe không bửng, mặt nạ bị bể, để tiếp tục xác minh làm rõ nguồn gốc, xử lý theo luật định.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/12/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố K với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố K).

Căn cứ Điều 135, 136 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án Buộc bị cáo Nguyễn Quốc V phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo Nguyễn Quốc V, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Châu Quang Bảo B có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm. Riêng thời hạn kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Thái Đức G kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

315
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 14/2022/HS-ST

Số hiệu:14/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về