Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 14/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGỌC HỒI, TỈNH KON TUM

BẢN ÁN 14/2021/HS-ST NGÀY 20/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 20 tháng 5 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hồi tỉnh Kon Tum xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 16/2021/TLST-HS ngày 26 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2021/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 5 năm 2021, đối với bị cáo:

- A H; tên gọi khác: Không; sinh năm 1982; nơi đăng ký HKTT: Thôn Đăk Răng, xã Y, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum; chỗ ở hiện nay: Thôn Đăk Mế, xã Y, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum; nghề nghiệp: làm nông; trình độ văn hóa (học vấn): lớp 02/12; dân tộc: Xơ đăng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đ (Đã chết) và bà Y Xuôi, hiện cư trú tại: Thôn Đăk Răng, xã Y, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum; bị cáo sống chung như vợ chồng với chị Y, bị cáo có hai con, con nhỏ sinh năm 2008; hiện nay con và chị Y cư trú tại: Thôn Đăk Mế, xã Y, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum.

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 16 tháng 12 năm 2020 cho đến nay, ngày 20 tháng 5 năm 2021 (Có mặt tại phiên tòa).

Bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngọc Hồi tỉnh Kon Tum.

Truy tố về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Người làm chứng;

- Y; năm sinh: 1987; địa chỉ: Thôn Đăk Mế, xã Y, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum (Có mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan - A Pa; năm sinh: 1980; địa chỉ: Thôn Đăk Mế, xã Y, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum (Vắng mặt tại phiên tòa).

- A N; năm sinh: 2003; địa chỉ: Thôn Đăk Mế, xã Y, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum (Vắng mặt tại phiên tòa).

- A L; năm sinh: 1992; địa chỉ: Thôn Đăk Mế, xã Y, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum (Vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 00 phút ngày 15/12/2020 A H dùng điện thoại của A L gọi điện thoại để mua ma túy, được người bán ma túy đồng ý và hẹn thời gian, địa điểm giao ma túy; 15 phút sau A H đi đến cổng chào thôn Đăk Mế ven quốc lộ 40. A H gặp người đàn ông không quen biết, bị cáo đưa cho người này 500.000 đồng và nhận một gói giấy nhỏ trong chứa ma túy, bị cáo bỏ gói ma túy vào túi quần; trên đường đi về nhà bị cáo xóa, hủy chứng cứ liên lạc với người bán ma túy; về đến nhà bị cáo trả điện thoại của A L về chỗ cũ (A L không biết việc bị cáo sử dụng điện thoại của A L). Bị cáo mở gói ma túy ra xem thấy trong gói ma túy có 10 (Mười) gói giấy nhỏ trong có chứa ma túy; bị cáo giấu số ma túy này vào trong điện thoại di động không có Pin nhãn hiệu “Masstel” màu Vàng đồng mang theo người; điện thoại này bị cáo có được là do A N được bố đẻ là ông A Pa cho, A N cầm cố điện thoại cho bị cáo để vay 200.000 đồng, A N chưa chuộc lại điện thoại. Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 16/12/2020, tại nhà của chị Y(Nơi ở của bị cáo) Công an huyện Ngọc Hồi kiểm tra và bắt quả tang trong điện thoại bị cáo A H mang theo người có số ma túy nói trên; qua đấu tranh A H khai nhận chất thu được là ma túy.

Bị cáo khai mua số ma túy này để ngày 17/12/2020 chuyển vào trong rừng cho hai người đàn ông nhờ bị bị cáo mua; nhưng lời khai của bị cáo không đủ cơ sở để cơ quan chức năng truy tìm hai người đàn ông nhờ mua ma túy; cũng không đủ cơ sở khẳng định bị cáo phạm tội vận chuyển trái phép chất ma túy.

Tang vật của vụ án thu được gồm: 10 gói giấy nhỏ màu trắng được gấp gói lại bên trong chứa chất dạng bột màu trắng; ký hiệu M1 = 0,026 (Gam); M1 = 0,026 (Gam); M2 = 0,023 (Gam); M3 = 0,029 (Gam); M4 = 0,025 (Gam); M5 = 0,028 (Gam); M6 = 0,025 (Gam); M7 = 0,026 (Gam); M8 = 0,030 (Gam); M9 = 0,024 (Gam); M10 = 0,031 (Gam).

01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu “Masstel” màu Vàng đồng, loại bàn phím, không có Pin, số IMEI 1: 357213105419608; , số IMEI 2: 357213105623605.

Tại Kết luận giám định số 258/KLGĐ-PC09, ngày 19/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kon Tum kết luận: Chất dạng bộ, màu trắng, được gói trong 10 gói giấy có tổng khối lượng 0,267 gam là loại Heroine. Khối lượng Heroine đã trừ bì hoàn trả sau giám định được đựng trong một gói ni lông có khối lượng là 0,190 gam.

Tại bản cáo trạng số: 09/CT-VKS-NH ngày 25/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngọc Hồi tỉnh Kon Tum truy tố bị cáo A H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo A H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, trên cơ sở khẳng định A H có nhân thân tốt (Chưa có tiền án, tiền sự); thật thà khai báo, ăn năn hối cải; nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo A H từ 12 tháng đến 18 tháng tù.

Về xử lý tang vật và án phí:

Về án phí; đề nghị Hội đồng xét xử, sử lý theo quy định của pháp luật;

Căn cứ quy định tại Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 47 của Bộ luật hình sự đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy vật chứng cấm tàng trữ không có giá trị hoặc không có giá trị sử dụng, gồm:

- 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu “Masstel” màu vàng đồng, loại bàn phím, không có Pin, số IMEI 1: 357213105419608; , số IMEI : 357213105623605.

- Khối lượng là 0,190 gam chất Heroine hoàn trả sau giám định được chứa trong 01 (Một) phong bì mặt trước có nội dung “CÔNG AN TỈNH KON TUM PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ SỐ: 258/KL-GĐ-PC09” mặt sau có các hình dấu tròn có ghi nội dung “* PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ *CÔNG AN TỈNH KON TUM” và có các chữ ký, ghi tên của những người tham gia niêm phong tại mép dán.

Bị cáo có lời khai: Khoảng 18 giờ 15 phút ngày 15/12/2020 A H mua ma túy của một người đàn ông không quen biết tại cổng chào thôn Đăk Mế ven quốc lộ 40 với số tiền 500.000 đồng và nhận một gói giấy nhỏ trong chứa ma túy, về nhà kiểm tra thấy trong gói ma túy này có 10 gói ma túy nhỏ; khoảng 15 giờ 30 phút ngày 16/12/2020, tại nhà của chị Y(Nơi ở của bị cáo) Công an huyện Ngọc Hồi kiểm tra và bắt quả tang trong điện thoại mang theo người A H có số ma túy nói trên; đúng là bị cáo đã phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy, nhưng bị cáo phạm tội lần đầu, bị cáo mua ma túy giúp người khác, bị cáo là người dân tộc thiểu số ít hiểu biết; thật thà khai báo, ăn năn hối cải xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người làm chứng; chị Ycó lời khai: Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 16/12/2020, tại nhà của chị Y(Nơi ở của bị cáo) Công an huyện Ngọc Hồi kiểm tra và bắt quả tang trong điện thoại mang theo người A H có số ma túy nói trên.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - A L có lời khai: Khoảng 17 giờ 50 phút ngày 15/12/2020 A L có đến nhà A H chơi và để điện thoại tại giường nhà A H còn A H có sử dụng điện thoại của A L mua ma túy hay không A L không biết; vì sau thời gian chơi ở nhà A H khi về A L vẫn thấy điện thoại di động của mình để ở chỗ cũ và trong điện thoại không có các thông tin lạ.

- A Pa có lời khai: Điện thoại di động nhãn hiệu “Masstel” màu Vàng đồng, loại bàn phím, số IMEI 1: 357213105419608; số IMEI 2: 357213105623605 là của A Pa; A N xin điện thoại thì A Pa đã cho A N điện thoại này, còn A N cầm cố vay tiền của A H thế nào thì A Pa không biết và A Pa không có nhu cầu lấy điện thoại này.

- A N có lời khai: Điện thoại di động nhãn hiệu “Masstel” màu Vàng đồng, loại bàn phím, số IMEI 1: 357213105419608; số IMEI 2: 357213105623605 là của A Pa (Bố đẻ);

A N xin và A Pa đã cho A N, A N cầm cố vay A H 200.000 đồng; còn tại sao điện thoại không có Pin thì A N không biết; A N không tiền trả A H nên A N không có nhu cầu chuộc lại điện thoại này.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Ngọc Hồi, của Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngọc Hồi, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người làm chứng không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về căn cứ kết tội bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các lời khai có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với các vật chứng thu giữ được, phù hợp với lời khai của người làm chứng cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận; về thời gian, địa điểm, hành vi phạm tội: Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 16/12/2020, tại nhà của chị Y(Nơi ở của bị cáo) cơ quan chưc năng kiểm tra và bắt quả tang trong điện thoại mang theo người A H chất ma túy có tổng khối lượng 0,267 gam là loại Heroine. Như vậy, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Tội phạm bị cáo thực hiện đã hoàn thành, Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngọc Hồi truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tội bị cáo phạm phải là tội phạm nghiêm trọng.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý hàng cấm của Nhà nước, xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Ma túy là một loại độc dược gây nghiện, khi sử dụng nó sẽ làm cho con người bị lệ thuộc và mất đi nhân cách, là nguyên nhân gây ra sự suy thoái về đạo đức xã hội và phát sinh các tội phạm khác. Căn cứ vào hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần phải xử lý nghiêm khắc để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Nên cần xử cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống chung của gia đình, cộng đồng xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục và để bị cáo tự cai nghiện là cần thiết; thời gian cách ly bị cáo phải đủ để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, loại hình phạt, hình phạt bổ sung đối với bị cáo A H:

Bị cáo có nhân thân tốt; chưa có tiền án, tiền sự;

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo mua ma túy hộ người khác (Không rõ mục đích, động cơ phạm tội) là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, cần cho bị cáo được hưởng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo; cho bị cáo thấy được hình phạt đối với bị cáo đã thể hiện sự khoan hồng, đúng lý, đạt tình của pháp luật mà yên tâm phấn đấu cải tạo cho tốt, để được sớm trở về đoàn tụ với gia đình, hòa nhập với cộng đồng, trở thành công dân tốt.

[5] Hội đồng xét xử thấy; cần chấp nhận loại hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân nêu tại bản luận tội là phù hợp với quy định tại Điều 50 của Bộ luật hình sự. Nhưng mức án, cần giảm nhẹ cho bị cáo.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định của pháp luật, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo người dân tộc thiểu số, thu nhập thấp, đời sống khó khăn, bị cáo tàng trữ ma túy không nhằm mục đích kiếm lời. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy cần miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối, với bị cáo.

[7] Về vật chứng của vụ án: A N cầm cố điện thoại di động nhãn hiệu “Masstel” màu Vàng đồng, loại bàn phím, số IMEI 1: 357213105419608; số IMEI 2:

357213105623605 l vay A H 200.000 đồng; A N không có nhu cầu chuộc lại điện thoại này; tức là điện thoại thuộc sở hữu của bị cáo. Bị cáo dùng điện thoại để cất giấu chất ma túy thì điện thoại là phương tiện phạm tội, là vật chứng của vụ án.

Căn cứ Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự tuyên; tịch thu tiêu hủy vật chứng cấm tàng trữ, không có giá trị hoặc không có giá trị sử dụng là:

- Khối lượng là 0,190 gam chất Heroine hoàn trả sau giám định được chứa trong 01 (Một) phong bì mặt trước có nội dung “CÔNG AN TỈNH KON TUM PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ SỐ: 258/KL-GĐ-PC09” mặt sau có các hình dấu tròn có ghi nội dung “* PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ *CÔNG AN TỈNH KON TUM” và có các chữ ký, ghi tên của những người tham gia niêm phong tại mép dán.

- 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu “Masstel” màu vàng đồng, loại bàn phím, không có Pin, số IMEI 1: 357213105419608; số IMEI 2: 357213105623605.

Các vật chứng nêu trên số lượng, đặc điểm, chất lượng, tính năng, giá trị như trong Biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/4/2021 của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ngọc Hồi và Chi cục thi hành án dân sự huyện Ngọc hồi kèm theo Quyết định chuyển giao vật chứng số 07/QĐ-VKS ngày 25/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngọc Hồi.

Về án phí: Bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo A H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo A H 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo (Ngày 16 tháng 12 năm 2020).

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; căn cứ Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự; Tuyên: Tịch thu tiêu hủy vật chứng cấm tàng trữ, không có giá trị hoặc không có giá trị sử dụng là:

- Khối lượng là 0,190 gam chất Heroine hoàn trả sau giám định được chứa trong 01 (Một) phong bì mặt trước có nội dung “CÔNG AN TỈNH KON TUM PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ SỐ: 258/KL-GĐ-PC09” mặt sau có các hình dấu tròn có ghi nội dung “* PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ *CÔNG AN TỈNH KON TUM” và có các chữ ký, ghi tên của những người tham gia niêm phong tại mép dán.

- 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu “Masstel” màu Vàng đồng, loại bàn phím, không có Pin, số IMEI 1: 357213105419608; , số IMEI 2: 357213105623605.

Các vật chứng nêu trên số lượng, đặc điểm, chất lượng, tính năng, giá trị như trong Biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/4/2021 của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ngọc Hồi và Chi cục thi hành án dân sự huyện Ngọc hồi kèm theo Quyết định chuyển giao vật chứng số 07/QĐ-VKS ngày 25/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngọc Hồi.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo A H phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào Ngân sách Nhà nước.

Căn cứ các Điều 331; 332; 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

“Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

283
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 14/2021/HS-ST

Số hiệu:14/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ngọc Hồi - Kon Tum
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về