Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 14/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH QUẢNG NAM

 BẢN ÁN 14/2021/HS-ST NGÀY 08/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 08 tháng 9 năm 2021, tại Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 13/2021/TLST-HS ngày 22 tháng 7 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2021/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 8 năm 2021 đối với:

Bị cáo Hoàng Công H. Tên gọi khác: không. Sinh ngày 02/9/1985 tại huyện B, tỉnh Quảng Nam; Nơi cư trú: thôn D, xã T, huyện B, tỉnh Quảng Nam; Nghề nghiệp: lái xe; Trình độ học vấn: 08/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hoàng Anh H (đã chết) và bà Nguyễn Thị Lệ H; Có vợ là Ngô Thị Thanh T và có 01 con. Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Tạm giam” từ ngày 12/6/2021. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Chị Hoàng Thị Ánh M, sinh năm 1982. (có mặt) Địa chỉ: thôn D, xã T, huyện B, Quảng Nam.

- Người chứng kiến:

+ Ông Mai Phi Hải, sinh năm 1984. (vắng mặt) Địa chỉ: thôn D, xã D, B, Quảng Nam.

+ Ông Trần Ngọc Châu, sinh năm 1968. (vắng mặt) Địa chỉ: thôn D, xã D, B, Quảng Nam.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng ngày 17/5/2021, khi đang ở thành phố Tam Kỳ, bị cáo Hoàng Công H gặp một người bạn tên T (không rõ nhân thân, lai lịch) ở một quán nước. Tại đây, bị cáo nói với T về việc bị cáo muốn cai ma túy nhưng lại sợ mệt, không chịu được. Nghe vậy, T đưa cho bị cáo một túi nilon trong suốt, có miệng khóa, bên trong có chứa chất ma túy đá và bảo bị cáo khi nào chịu không nổi nữa thì lấy ra sử dụng cho đỡ mệt. Bị cáo mang số ma túy mà T vừa cho cất trong một hộp giấy (loại hộp đựng điện thoại di động), để trong phòng ngủ của H tại nhà của chị Hoàng Thị Ánh M (là chị ruột của bị cáo) thuộc thôn D, xã D, huyện B. Ngày 18/5/2021, bị cáo thấy mệt và lạnh trong người nên đã lấy ra một ít ma túy đá để sử dụng và cất số ma túy còn lại ở vị trí cũ. Đến khảng 12 giờ 05 phút ngày 19/5/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B đã tiến hành làm việc và thử nhanh nước tiểu đối với bị cáo thì phát hiện dương tính với chất ma túy đá (Methamphetamine) và ma túy heroin. Qua làm việc, bị cáo khai nhận đã sử dụng ma túy vào ngày 16/5/2021 tại huyện Tiên Phước, sử dụng ma túy đá vào ngày 18/5/2021 tại nhà chị Hoàng Thị Ánh M và số ma túy còn lại cất giấu tại nhà của chị M. Tiến hành kiểm tra, khám xét khẩn cấp nơi ở của bị cáo tại nhà chị Hoàng Thị Ánh M thì phát hiện và thu giữ 01 túi nilon có chứa chất tinh thể rắn màu trắng nghi là chất ma túy đá; 02 hộp quẹt lửa, bằng gas; 01 túi nilon hình chữ nhật, trong suốt, bên trong trống rỗng có kích thước 5,5 cm x 10 cm; 01 tép nilon nhỏ, kích thước 02 cm x 2,5 cm được hàn kín 03 cạnh, 01 cạnh hở; 01 tép nilon nhỏ, kích thước 03 cm x 02 cm được hàn kín 03 cạnh, 01 cạnh hở; 01 tép nhựa, màu trắng, kích thước 05 cm x 0,2 cm; 01 tép nhựa màu trắng, dạng ống, kích thước dài 3,5 cm, đường kính 0,3 cm; 03 đầu bông ráy tai.

Tại kết luận giám định số 63/PC09 ngày 26/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Nam kết luận: chất tinh thể màu trắng thu giữ là ma túy đá, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,176 gam.

Bản cáo trạng số 13/CT-VKS-BTM ngày 22 tháng 7 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Quảng Nam truy tố bị cáo Hoàng Công H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên nội dung truy tố theo bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm r, s khoản 1 điều 51, điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Hoàng Công H mức án từ 01 năm đến 02 năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam, ngày 12/6/2021.

Về xử lý vật chứng: đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu tiêu hủy: 01 (một) hộp giấy có in hình điện thoại di động, loại Nokia 105, kích thước hộp (13 cm x 11 cm x 3 cm); 02 (hai) hộp quẹt lửa, bằng gas; 01 (một) túi nilon hình chữ nhật, trong suốt, bên trong trống rỗng có kích thước (5,5 cm x 10 cm); 01 (một) tép nilon nhỏ, kích thước (2 cm x 2,5 cm) được hàn kín 03 cạnh, 01 cạnh hở; 01 (một) tép nilon nhỏ, kích thước (3 cm x 2 cm) được hàn kín 03 cạnh, 01 cạnh hở; 01 (một) tép nhựa, màu trắng, kích thước (5 cm x 0,2 cm); 01 (một) tép nhựa màu trắng, dạng ống, kích thước (dài 3,5 cm, đường kính 0,3 cm); 03 (ba) đầu bông ráy tai; 01 (một) bình nhựa cao 18 cm, bên trong chứa dung dịch trong suốt, bình có nắp vặn, đường kính 3 cm, màu trắng được đục 2 lỗ tròn với đường kính mỗi lỗ là 0,6 cm. Một lỗ có gắn 01 (một) ống thủy tinh dạng cong, một đầu thiết kế hình cầu có lỗ tròn, đường kính 0,7 cm, đầu còn lại được nối dài bằng ống hút màu xanh dài 5,5 cm, ngập một phần trong nước; 0,081 gam chất rắn dạng tinh thể màu trắng là ma túy loại Methamphetamin còn lại sau giám định và toàn bộ bao gói mẫu vật, tất cả được niêm phong trong một phong bì (loại bì giấy dùng để gửi công văn của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Nam, số 63/PC09). Trên bì niêm phong có chữ ký của ông Lê Cao Trí, ông Lê Hoàng Vũ, và ông Lê Kim Tâm; đóng dấu giáp lai 09 (chín) hình dấu đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự (mặt trước 04, mặt sau 05).

Bị cáo nói lời sau cùng mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Vào lúc 16 giờ ngày 19/5/2021, tại nhà chị Hoàng Thị Ánh M thuộc thôn D, xã D, huyện B, tỉnh Quảng Nam, bị cáo Hoàng Công H đã có hành vi tàng trữ trái phép ma túy đá, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,176 gam (không phẩy một trăm bảy mươi sáu gam) với mục đích để sử dụng.

Tại phiên tòa, bị cáo Hoàng Công H đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Đối chiếu và thẩm tra phù hợp với biên bản khám xét khẩn cấp ngày 19/5/2021, biên bản kiểm tra thu giữ vật chứng, bản ảnh hiện trường, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến, vật chứng thu giữ được tại hiện trường và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập.

Như vậy, bản cáo trạng số 13/CT-VKS-BTM ngày 22 tháng 7 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Quảng Nam và quan điểm luận tội của Kiểm sát viên tại phiên toà là có căn cứ pháp luật.

Hội đồng xét xử sơ thẩm có đủ căn cứ để kết luận hành vi của bị cáo Hoàng Công H đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[2] Xét tính chất vụ án, hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Bị cáo Hoàng Công H là người đã thành niên, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy bị pháp luật nghiêm cấm nhưng không tuân thủ, bản thân bị cáo là người nghiện ma túy nhưng không tích cực cai nghiện mà mua ma túy về tàng trữ để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp gây nguy hại cho xã hội, làm gia tăng tình trạng nghiện chất ma túy, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, gây hoang mang, bất bình trong quần chúng nhân dân. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội mà bị cáo đã gây ra, thể hiện tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[3] Bị cáo H không có tình tiết tăng nặng. Tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, biết ăn năn hối cải, hối hận và muốn sửa chữa những sai lầm về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo đã tự thú, khai báo về hành vi phạm tội của mình, phạm tội lần đầu nên Hội đồng xét xử sơ thẩm áp dụng điểm r, s khoản 1 điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để xem xét giảm nhẹ khi quyết định hình phạt đối với bị cáo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[4] Bản thân bị cáo không có việc làm ổn định và không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt tiền bổ sung đối với bị cáo.

[5] Đối với chị Hoàng Thị Ánh M là chủ sở hữu của ngôi nhà mà bị cáo cất giấu và sử dụng ma túy, là chị ruột của bị cáo nhưng thường xuyên không có mặt tại nhà và không biết việc bị cáo sử dụng và tàng trữ ma túy nên không có cơ sở truy cứu trách nhiệm đối với chị M là phù hợp.

[6] Đối với đối tượng tên T, là người mà bị cáo khai đã cho bị cáo số ma túy để sử dụng. Bị cáo không biết rõ thông tin của T nên Cơ quan CSĐT Công an huyện B không có cơ sở để truy tìm, xác minh và xử lý.

[7] Về xử lý vật chứng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện B đã thu giữ các vật chứng liên quan đến vụ án. Hội đồng xét xử áp dụng điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự xử lý, tịch thu tiêu hủy: 01 (một) hộp giấy có in hình điện thoại di động, loại Nokia 105, kích thước hộp (13 cm x 11 cm x 3 cm); 02 (hai) hộp quẹt lửa, bằng gas; 01 (một) túi nilon hình chữ nhật, trong suốt, bên trong trống rỗng có kích thước (5,5 cm x 10 cm); 01 (một) tép nilon nhỏ, kích thước (2 cm x 2,5 cm) được hàn kín 03 cạnh, 01 cạnh hở; 01 (một) tép nilon nhỏ, kích thước (3 cm x 2 cm) được hàn kín 03 cạnh, 01 cạnh hở; 01 (một) tép nhựa, màu trắng, kích thước (5 cm x 0,2 cm); 01 (một) tép nhựa màu trắng, dạng ống, kích thước (dài 3,5 cm, đường kính 0,3 cm); 03 (ba) đầu bông ráy tai; 01 (một) bình nhựa cao 18 cm, bên trong chứa dung dịch trong suốt, bình có nắp vặn, đường kính 3 cm, màu trắng được đục 2 lỗ tròn với đường kính mỗi lỗ là 0,6 cm, một lỗ có gắn 01 (một) ống thủy tinh dạng cong, một đầu thiết kế hình cầu có lỗ tròn, đường kính 0,7 cm, đầu còn lại được nối dài bằng ống hút màu xanh dài 5,5 cm, ngập một phần trong nước; 0,081 gam chất rắn dạng tinh thể màu trắng là ma túy loại Methamphetamin còn lại sau giám định và toàn bộ bao gói mẫu vật, tất cả được niêm phong trong một phong bì (loại bì giấy dùng để gửi công văn của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Nam, số 63/PC09), trên bì niêm phong có chữ ký của ông Lê Cao Trí, ông Lê Hoàng Vũ, và ông Lê Kim Tâm; đóng dấu giáp lai 09 (chín) hình dấu đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự (mặt trước 04, mặt sau 05).

[8] Về án phí: bị cáo Hoàng Công H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện B tỉnh Quảng Nam, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Quảng Nam, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 điều 249; điểm r, s khoản 1 điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Tuyên bố bị cáo Hoàng Công H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt Hoàng Công H 15 (mười lăm) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 12/6/2021.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy: 01 (một) hộp giấy có in hình điện thoại di động, loại Nokia 105, kích thước hộp (13 cm x 11 cm x 3 cm); 02 (hai) hộp quẹt lửa, bằng gas; 01 (một) túi nilon hình chữ nhật, trong suốt, bên trong trống rỗng có kích thước (5,5 cm x 10 cm); 01 (một) tép nilon nhỏ, kích thước (2 cm x 2,5 cm) được hàn kín 03 cạnh, 01 cạnh hở; 01 (một) tép nilon nhỏ, kích thước (3 cm x 2 cm) được hàn kín 03 cạnh, 01 cạnh hở; 01 (một) tép nhựa, màu trắng, kích thước (5 cm x 0,2 cm); 01 (một) tép nhựa màu trắng, dạng ống, kích thước (dài 3,5 cm, đường kính 0,3 cm); 03 (ba) đầu bông ráy tai; 01 (một) bình nhựa cao 18 cm, bên trong chứa dung dịch trong suốt, bình có nắp vặn, đường kính 3 cm, màu trắng được đục 2 lỗ tròn với đường kính mỗi lỗ là 0,6 cm, một lỗ có gắn 01 (một) ống thủy tinh dạng cong, một đầu thiết kế hình cầu có lỗ tròn, đường kính 0,7 cm, đầu còn lại được nối dài bằng ống hút màu xanh dài 5,5 cm, ngập một phần trong nước; 0,081 gam chất rắn dạng tinh thể màu trắng là ma túy loại Methamphetamin còn lại sau giám định và toàn bộ bao gói mẫu vật, tất cả được niêm phong trong một phong bì (loại bì giấy dùng để gửi công văn của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Nam, số 63/PC09), trên bì niêm phong có chữ ký của ông Lê Cao Trí, ông Lê Hoàng Vũ, và ông Lê Kim Tâm;

đóng dấu giáp lai 09 (chín) hình dấu đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự (mặt trước 04, mặt sau 05).

(Các vật chứng trên hiện đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện B theo biên bản giao nhận ngày 02/8/2021).

Về án phí: áp dụng khoản 2 điều 135, khoản 2 điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Hoàng Công H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 08/9/2021).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 14/2021/HS-ST

Số hiệu:14/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Điện Bàn - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về