Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 141/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHỔ YÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 141/2021/HS-ST NGÀY 28/10/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28/10/2021, tại hội trường xét xử Tòa án nhân dân thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số: 134/2021/TLST-HS ngày 01/10/2021; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 147/2021/QĐXXST-HS ngày 15/10/2021 đối với bị cáo:

Lê Văn M (tên gọi khác: Không), sinh năm 1996. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở:  thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn S và bà Nguyễn Thị H; có vợ là Lưu Thị Ch; con chưa có; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/6/2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên. Có mặt.

* Người làm chứng: Anh Đỗ Văn Đ, sinh năm: 1996; trú tại:tỉnh Thái Nguyên. Vắng mặt.

* Người chứng kiến:

1. Ông Trần Văn V, sinh năm: 1963; trú tại: tỉnh Thái Nguyên. Vắng mặt.

2. Anh Lê Khánh T, sinh năm: 1987; trú tại:  tỉnh Thái Nguyên. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 13 giờ 10 phút ngày 22/6/2021, Lê Văn M điều khiển xe mô tô BKS 29K6-2050 từ khu công nghiệp Điềm Thuỵ, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên đến xóm Hạ Vụ 1, xã Vạn Phái, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên để uống bia cùng anh Đỗ Văn Đức. Sau khi uống bia xong, đến khoảng 16 giờ 15 phút cùng ngày, M rủ Đức đi mua ma tuý về cùng sử dụng. Sau đó, M điều khiển xe mô tô chở Đức đến khu vực xóm Kim Tỉnh, xã Trung Thành, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Khi đến nơi, Đức ngồi trên xe đợi M, M đi bộ đến trước cửa một ngôi nhà có cửa sắt đóng kín nằm bên trái hành lang đường quốc lộ 3 cũ theo hướng Thái Nguyên – Hà Nội, rồi đưa số tiền 300.000 đồng qua khe cửa sát nền bê tông và bên trong ngôi nhà, thì trong nhà có người cầm tiền và đưa ra ngoài cho M 02 túi nilon, bên trong mỗi túi đều chứa chất rắn màu trắng đục là ma tuý loại heroin. Mua được ma tuý, M tiếp tục điều khiển xe mô tô và chở Đức đến khu vực chân núi Ngạng thuộc xóm Cơ Phi 2, xã Vạn Phái, thị xã Phổ Yên để cùng Đức sử dụng ma tuý nhưng chưa kịp sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Ngày 23/6/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Phổ Yên phối hợp với Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên cân khối lượng số chất bột màu trắng đục thu giữ của M được 0,241 gam (đã trừ bì), lấy tất cả số chất rắn màu trắng nêu trên niêm phong trong bì ký hiệu K gửi giám định.

Ti bản kết luận giám định số 1053 ngày 30/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, kết luận: Mẫu chất rắn màu trắng đục trong phong bì ký hiệu K gửi giám định là chất ma tuý, loại Heroine, có khối lượng là 0,241 gam.

Ti bản cáo trạng số 136/CT-VKSPY ngày 30/9/2021, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố bị cáo Lê Văn M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Ti phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với vật chứng đã bị thu giữ.

Kết thúc phần thẩm vấn, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lê Văn M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt Lê Văn M mức án từ 18 - 24 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị tịch thu tiêu huỷ toàn bộ số ma tuý còn lại sau giám định và vỏ, bao gói kèm theo.

Đi với 01 xe mô tô BKS 29K6-2050 nhãn hiệu Honda Dream cần chuyển cho Cơ quan Công an thị xã Phổ Yên tiếp tục xác minh, giải quyết theo quy định.

Về án phí và quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì thêm. Lời nói sau cùng, bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Phổ Yên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phổ Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Nhng người làm chứng, người chứng kiến đã được triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do, kiểm sát viên, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vắng mặt những người chứng kiến và người làm chứng. Xét thấy, trong hồ sơ đã có lời khai của người chứng kiến và người làm chứng nên sự vắng mặt họ không gây trở ngại cho quá trình xét xử. Vì vậy, Hội đồng xét căn cứ Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự xét xử vắng mặt họ theo quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội: Lời khai nhận của bị cáo là hoàn toàn khách quan, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác thu thập được trong hồ sơ vụ án.

Hi đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Khoảng 18 giờ 20 phút ngày 22/6/2021 tại khu vực chân núi Ngạng thuộc xóm Cơ Phi 2, xã Vạn Phái, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên; Lê Văn M đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,241 gam ma tuý loại Heroine, mục đích sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành của tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, cáo trạng số 136/CT-VKSPY ngày 30/9/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, không oan.

Ni dung Điều 249 quy định:

"1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine…, có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam… 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”.

[3] Xét tính chất vụ án: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây mất trật tự, an ninh tại địa phương. Do đó việc đưa ra xét xử đối với bị cáo là cần thiết để răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Xét các yếu tố về nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Về nhân thân: Bị cáo được gia đình nuôi ăn học đến lớp 7/12 thì nghỉ học và lao động tự do tại địa phương. Trước khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5] Khi lượng hình Hội đồng xét xử thấy: Căn cứ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các yếu tố về nhân thân, Hội đồng xét xử thấy rằng, cần áp dụng mức hình phạt tù giam, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới đảm bảo được tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời răn đe, giáo dục phòng ngừa chung.

Mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa đối với bị cáo xét thấy là phù hợp được chấp nhận.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có thu nhập ổn định, mục đích mua ma túy về sử dụng không có mục đích mua, bán nên miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Số ma túy thu giữ của bị cáo cùng các bao bì kèm theo còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành, không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

Đi với 01 xe mô tô BKS 29K6-2050 là phương tiện bị cáo M sử dụng để đi mua ma tuý, lẽ ra phải tịch thu sung công quỹ Nhà nước. Tuy nhiên, do chưa làm rõ được chủ sở hữu của chiếc xe trên, nên cần chuyển cho Công an thị xã Phổ Yên tiếp tục thông báo, xác minh chủ sở hữu để giải quyết theo quy định.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo: Cần buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định.

[9] Các vấn đề khác: Về nguồn gốc số ma tuý thu giữ của Lê Văn M, bị cáo khai mua tại một ngôi nhà có cửa sắt đóng kín tại hành lang đường Quốc lộ 3 cũ thuộc xóm Kim Tỉnh, xã Trung Thành, thị xã Phổ Yên. Tuy nhiên, bị cáo không biết chủ ngôi nhà là ai, không nhìn thấy người bán ma tuý nên Cơ quan điều tra Công an thị xã Phổ Yên tiếp tục điều tra, xử lý sau là phù hợp.

Đi với Đỗ Văn Đức là người đi cùng Lê Văn M mua ma tuý nhưng Đức không tham gia giúp sức và không được hưởng lợi gì từ việc mua ma tuý của M, Đức và M cũng chưa kịp sử dụng ma tuý nên Cơ quan điều tra không xử lý đối với Đức là phù hợp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lê Văn M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về điều luật áp dụng và hình phạt:

2.1. Hình phạt chính: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt: Lê Văn M 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/6/2021.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam bị cáo Lê Văn M 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2.2. Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tch thu, tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong có dấu đỏ ký hiệu L ghi mẫu lưu kho; 01 phong bì niêm phong có dấu đỏ ký hiệu K ghi hoàn trả 0,232 gam mẫu K và vỏ bao gói mẫu K.

Chuyển 01 xe mô tô BKS 29K6-2050 nhãn hiệu Dream Honda màu nâu, số máy C100MPE-0034449, số khung C100MP-0034449, xe đã qua sử dụng, không gương, han rỉ cho Công an thị xã Phổ Yên để tiếp tục thông báo, xác minh chủ sở hữu, giải quyết theo quy định.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thị xã Phổ Yên và Chi cục thi hành án dân sự thị xã Phổ Yên ngày 27/9/2021).

4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc Lê Văn M phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp sung công quỹ Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Bị cáo Lê Văn M có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 141/2021/HS-ST

Số hiệu:141/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phổ Yên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về