Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 140/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 140/2021/HS-ST NGÀY 31/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 5 năm 2021 tại Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 139/2021/TLST-HS ngày 17 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 139/2021/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trương Xuân T, sinh năm 1974 tại: Thành phố N, tỉnh Nam Định; đăng ký hộ khẩu thường trú: Đường H, phường V, thành phố N, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Đường K, phường L, thành phố N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Xuân D và bà Phạm Thị V; chưa có vợ, con; Tiền án: Ngày 07-4-2000 bị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 02 năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”; ngày 11-10-2002 bị Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xử phạt 02 năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, ra trại ngày 09-6-2004; ngày 18- 7-2006 bị Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xử phúc thẩm phạt 17 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, ra trại ngày 01-7-2019; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 06-12-1997 bị Tòa án nhân dân huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tài sản trị giá dưới 2.000.000 đồng; ngày 15-3-1999 bị Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định xử phúc thẩm phạt 09 tháng tù về tội “Đánh bạc”, số tiền đánh bạc dưới 5.000.000 đồng; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 11-02-2021 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Nam Định. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

Chị Trần Thị T1 Ông Trần Phú H Bà Trương Thị H1

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 10-02-2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định nhận được tin báo từ Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định về việc có 01 phụ nữ tên là Nguyễn Thanh P, sinh năm 1990; trú tại: Đường B, phường X, thành phố N, tỉnh Nam Định được đưa vào cấp cứu đã tử vong, không xác định được người đưa đến bệnh viện. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã tiến hành xác minh và xác định được trước đó chị Nguyễn Thanh P có đi chơi cùng với bạn tên là Trần Thị T1, sinh năm 1993; trú tại: Đường B, phường X, thành phố N, tỉnh Nam Định và Trương Xuân T. T và T1 đã đưa chị P đến cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định bằng xe ô-tô biển kiểm soát 18A-195.87. Sau đó T và T1 đi về nơi ở của T. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã đến nơi ở của T để triệu tập T và T1 lên làm việc.

Căn cứ vào tài liệu điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Trương Xuân T tại địa chỉ: Đường K, phường L, thành phố N, tỉnh Nam Định và chiếc xe ô-tô biển kiểm soát 18A-195.87. Trong quá trình khám xét đã phát hiện, thu giữ những vật chứng sau:

- Thu giữ tại khe cửa ra vào nhà ở của Trương Xuân T gồm:

+ 01 túi ni-lông màu trắng, kích thước khoảng 4x4cm, bên trong có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng. Vật chứng được niêm phong trong phong bì thư dán kín theo quy định của pháp luật, ký hiệu K1.

+ 01 gói giấy bạc màu trắng, mở kiểm tra bên trong có chứa chất bột màu trắng. Vật chứng được niêm phong trong phong bì thư dán kín theo quy định của pháp luật, ký hiệu K2.

- Thu giữ tại giá đựng giày dép trước cửa nhà ở của Trương Xuân T: 01 chiếc điện thoại di động màu trắng đã cũ, mặt sau có chữ NOKIA, được niêm phong trong túi niêm phong mã số: NS4A 185028.

- Thu giữ trên sập gỗ trong phòng khách nhà ở của Trương Xuân T gồm:

+ 01 chiếc điện thoại di động màu trắng đen đã cũ, mặt sau có chữ OPPO, được niêm phong trong túi niêm phong mã số: NS2A 069035.

+ 01 chiếc điện thoại di động màu đen đã cũ, mặt sau có chữ IPHONE, được niêm phong trong túi niêm phong mã số: NS2A 069046.

- 01 chiếc ví da màu nâu đã cũ, thu giữ bên trong ví gồm:

+ 01 thẻ ngân hàng BIDV màu vàng mang tên Trương Xuân T. Vật chứng được niêm phong trong phong bì thư dán kín theo quy định của pháp luật, ký hiệu K6.

+ 01 thẻ ngân hàng MB màu xanh mang tên Trương Xuân T. Vật chứng được niêm phong trong phong bì thư dán kín theo quy định của pháp luật, ký hiệu K7.

+ 01 thẻ căn cước công dân và 01 giấy phép lái xe đều mang tên Trương Xuân T, được niêm phong trong túi niêm phong mã số: NS4A 185150.

+ 01 đăng ký xe máy biển kiểm soát 18B2-496.44 mang tên Trương Xuân T.

+ Số tiền 14.700.000 đồng (mười bốn triệu bảy trăm nghìn đồng).

- Thu giữ trong lọ sứ màu trắng đặt cạnh góc tường trong phòng khách nhà ở của Trương Xuân T 01 hộp kim loại hình chữ nhật, trên mặt có chữ Thăng Long, bên trong hộp kim loại có 01 cóng thủy tinh và 02 ống nhựa màu trắng.

- Thu giữ trên nền gác xép nhà ở của Trương Xuân T 01 lọ nhựa có chữ REDVIAGRA, bên trong lọ nhựa có 09 viên nén hình tròn màu nâu, một mặt mỗi viên đều có hình ngôi sao, mặt còn lại đều có chữ “No.1”. Vật chứng được niêm phong trong phong bì thư dán kín theo quy định của pháp luật, ký hiệu K9.

- Thu giữ trên nền gác xép nhà ở của Trương Xuân T 07 chiếc bật lửa ga màu đỏ, bên ngoài đều bọc ni-lông màu trắng.

- Thu giữ trên nền gác xép nhà ở của Trương Xuân T 01 hộp giấy hình chữ nhật màu đen, kích thước khoảng 6x6x20 cm, bên trong hộp giấy có 01 chiếc bật lửa khò màu đen chấm xanh trắng và 01 bộ bình sử dụng ma túy tổng hợp, gồm: 01 bình thủy tinh cao khoảng 15 cm, trên miệng bình có cắm 01 cóng thủy tinh và 01 ống nhựa màu trắng.

- Thu giữ trong túi ni-lông màu xanh trên nền gác xép nhà ở của Trương Xuân T 01 lọ nhựa có chữ HAPPYDENT, bên trong lọ nhựa có:

+ 01 túi ni-lông màu trắng, kích thước khoảng 6x10cm, bên trong có chứa 50 viên nén hình ngũ giác màu xanh và 01 túi ni-lông màu trắng, kích thước khoảng 6x10cm, bên trong có chứa 46 viên nén hình ngũ giác màu xanh, trên một mặt mỗi viên đều có hình đầu lâu, mặt còn lại đều có hình (-). Vật chứng được niêm phong trong phong bì thư dán kín theo quy định của pháp luật, ký hiệu K10.

+ 01 túi ni-lông màu trắng, kích thước khoảng 4x7cm, bên trong có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng. Vật chứng được niêm phong trong phong bì thư dán kín theo quy định của pháp luật, ký hiệu K11.

- Thu giữ trên nền gác xép nhà ở của Trương Xuân T 01 chiếc ba-lô màu da cam - đen đã cũ. Thu giữ tại túi hông của chiếc ba-lô nói trên 01 túi ni-lông màu trắng, kích thước khoảng 6x7cm, bên trong có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng. Vật chứng được niêm phong trong phong bì thư dán kín theo quy định của pháp luật, ký hiệu K12.

- Thu giữ trên mắc treo quần áo trên gác xép nhà ở của Trương Xuân T 01 chiếc áo khoác màu xanh. Thu giữ trong túi áo ngực phía trong bên trái của chiếc áo khoác nói trên 01 túi ni-lông màu trắng, kích thước khoảng 4x7cm, bên trong có 10 viên nén hình ngũ giác màu xanh, trên một mặt mỗi viên đều có hình đầu lâu, mặt còn lại đều có hình (-). Vật chứng được niêm phong trong phong bì thư dán kín theo quy định của pháp luật, ký hiệu K13.

- Thu giữ 01 xe ô-tô nhãn hiệu MITSUBISHI XPANDER đã cũ, biển kiểm soát 18A-195.87; số máy: 4A91HT0588; số khung: MK2LRNC1WLN003304.

- Thu giữ trong xe ô-tô biển kiểm soát 18A-195.87 gồm:

+ Thu giữ trên ghế lái xe ô-tô 01 áo khoác nam màu đen.

+ Thu giữ trên ghế phụ phía trước, cạnh ghế lái 01 áo lông màu đen.

+ Thu giữ trong hốc để đồ phía trước ghế phụ 01 thẻ sim điện thoại Vinaphone đã tháo sim, được niêm phong trong túi niêm phong mã số: 190165, ký hiệu X1.

+ Thu giữ trong hốc để nước hàng ghế thứ 3 sau ghế lái: 01 ống quấn bằng tờ tiền mệnh giá 1.000 Việt Nam đồng, được cố định bằng ni-lông màu hồng và 01 ống quấn bằng tờ tiền mệnh giá 1000 Việt Nam đồng, được cố định bằng ni-lông màu trắng, được niêm phong trong túi niêm phong mã số: 190159, ký hiệu X2.

+ Thu giữ dưới sàn ghế lái 01 vỏ bánh màu xanh, trên mặt có chữ “Challot”.

- Thu giữ trong hốc để đồ giữa ghế lái và ghế phụ 01 túi ni-lông màu vàng, trong túi gồm:

+ 01 điện thoại di động màu đen đã cũ, trên mặt có chữ NOKIA, được niêm phong trong túi niêm phong mã số: NS4A 185149.

+ 01 điện thoại di động màu đen đã cũ, trên cả hai mặt đều có chữ Masstel, được niêm phong trong túi niêm phong mã số: NS4A 185147.

+ 01 điện thoại di động màu vàng trắng đã cũ, mặt sau có chữ IPHONE, được niêm phong trong túi niêm phong mã số: NS2A 069005.

+ 01 loa màu đen đã cũ, trên loa có chữ BOSE.

+ 01 bánh màu vàng, trên mặt có chữ “Challot”.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Nam Định đã phối hợp với Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định và Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định tiến hành khám nghiệm hiện trường phòng 301 nhà nghỉ Việt Đức, địa chỉ: Tổ 24, phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Quá trình khám nghiệm đã thu giữ, tạm giữ những vật chứng sau:

- Thu trong thùng đựng rác phòng 301, gồm:

+ 01 túi ni-lông màu trắng, kích thước khoảng 9,6x6cm, bên trong có 01 gói nhỏ bằng tờ tiền mệnh giá 2.000 Việt Nam đồng và một ít chất bột màu trắng, được niêm phong trong túi niêm phong có mã số: NS4A190160.

+ 02 chiếc tất màu đen, 01 quần lót màu trắng.

+ Thu ở dưới nền nhà giữa giường số 01 và 02: một ít chất lỏng lẫn chất nhuyễn hóa, được cho vào trong 01 túi ni-lông màu trắng, được niêm phong trong túi niêm phong mã số: NS2A 069047.

- Thu giữ trên giường số 1: 01 chiếc bật lửa ga màu đỏ đã qua sử dụng, được niêm phong trong túi niêm phong mã số: NS4A 190164.

- Thu giữ trên giường số 2: 01 chiếc váy màu đỏ đã cũ.

- Thu giữ trên bàn gỗ: 01 chiếc cốc thủy tinh màu trắng, được niêm phong trong túi niêm phong mã số: NS2A 070273.

- Thu giữ trong ngăn kéo: 02 bao cao su đã bóc khỏi vỏ, được niêm phong trong túi niêm phong mã số: NS3A 113690.

- Thu giữ bên dưới cửa sổ: 01 chiếc áo màu vàng đã cũ.

- Thu giữ trên giường số 01 và 02 gồm: 04 vỏ gối màu trắng, 02 vỏ ga trải giường màu trắng, 02 vỏ chăn màu trắng và 04 vỏ đệm màu đỏ.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã tiến hành thu mẫu nước tiểu của các đối tượng Trương Xuân T và Trần Thị T1, được niêm phong theo quy định của pháp luật, ký hiệu lần lượt ký hiệu N1, N2.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã tiến hành trưng cầu giám định các mẫu vật chứng thu giữ trong vụ án kí hiệu K1, K2, K6, K7, K9, K10, K11, K12, K13, X1, X2 cùng mẫu nước tiểu N1, N2.

Tại các bản kết luận giám định số 230/GĐKTHS ngày 11-02-2021, số 231/GĐKTHS ngày 19-02-2021 và số 276/GĐKTHS ngày 26-02-2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận:

- Mẫu rắn dạng tinh thể màu trắng trong 02 phong bì thư được niêm phong ký hiệu K1, K12 gửi giám định đều là ma túy. Loại ma túy Methamphetamine. Khối lượng mẫu K1: 0,184 gam; khối lượng mẫu K12: 1,557 gam.

- Mẫu bột màu trắng trong 01 gói giấy bạc màu trắng, trong phong bì thư được niêm phong ký hiệu K2 gửi giám định là ma túy. Loại ma túy MDMA. Khối lượng mẫu K2: 0,308 gam.

- Mẫu rắn dạng tinh thể màu trắng trong 01 túi ni-lông màu trắng, kích thước khoảng 4x7cm, trong phong bì được niêm phong ký hiệu K11 gửi giám định là ma túy. Loại ma túy Ketamine. Khối lượng mẫu K11: 0,292 gam.

- Mẫu viên nén hình tròn màu nâu, một mặt mỗi viên đều có hình ngôi sao và một mặt mỗi viên đều có chữ “No.1” trong 01 lọ nhựa có chữ REDVIAGRA, trong phong bì thư được niêm phong ký hiệu K9 gửi giám định không phải là ma túy thuộc danh mục các chất ma túy theo quy định của Chính phủ. Tổng khối lượng mẫu K9: 5,609 gam.

- Mẫu viên nén hình ngũ giác màu xanh, trên bề mặt mỗi viên đều có hình đầu lâu và một mặt đều có hình “-”, trong 02 phong bì thư được niêm phong ký hiệu K10 và K13 gửi giám định đều là ma túy. Gồm các loại ma túy: MDMA và Ketamine. Tổng khối lượng mẫu K10: 37,515 gam; tổng khối lượng mẫu K13: 3,805 gam.

- Có tìm thấy thành phần chất ma túy bám dính trên 01 ống cuốn bằng tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng, được cố định bằng ni-lông màu hồng và 01 ống cuốn bằng tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng, được cố định bằng ni-lông màu trắng, trong túi niêm phong được ký hiệu X2 gửi giám định. Loại ma túy Methamphetamine. Tổng khối lượng mẫu X2: Không xác định được khối lượng mẫu.

- Không tìm thấy các chất ma túy thuộc danh mục các chất ma túy theo quy định của Chính phủ bám dính trên 01 thẻ ngân hàng BIDV màu vàng mang tên Trương Xuân T, trong phong bì thư được niêm phong ký hiệu K6; 01 thẻ ngân hàng MB màu xanh mang tên Trương Xuân T, trong phong bì thư được niêm phong ký hiệu K7 và 01 thẻ sim điện thoại Vinaphone đã được tháo thẻ sim trong túi niêm phong được ký hiệu X1 gửi giám định.

- Có tìm thấy thành phần các chất gồm: Amphetamine; MDMA; Ketamine; Norketamine và Dehydroketamine trong mẫu nước tiểu được niêm phong ký hiệu N1 gửi giám định.

- Có tìm thấy thành phần các chất gồm: Amphetamine; Metamphetamine và MDMA trong mẫu nước tiểu được niêm phong ký hiệu N2 gửi giám định.

(Amphetamine là sản phẩm chuyển hóa của Methamphetamine trong nước tiểu, Norketamine và Dehydroketamine là những sản phẩm chuyển hóa của Ketamine trong nước tiểu).

- Mẫu bột màu trắng trong 01 gói nhỏ được gói bằng tờ tiền mệnh giá 2.000 đồng và mẫu bột màu trắng đều trong 01 túi ni-lông màu trắng, kích thước khoảng 9,6x6cm, trong túi niêm phong mã số: NS4A190160 gửi giám định đều là ma túy. Loại ma túy Ketamine. Tổng khối lượng mẫu: 0,678 gam.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã trưng cầu giám định bổ sung số vật chứng gồm mẫu K10 và mẫu K13 thu giữ trong vụ án tại Viện khoa hình sự - Bộ Công an để giám định khối lượng, hàm lượng chất ma túy MDMA và Ketamine có trong mẫu.

Tại bản kết luận giám định số 1571/C09-TT2 ngày 10-03-2021 của Viện khoa hình sự - Bộ Công an kết luận:

- Hàm lượng Ketamine trung bình trong mẫu các viên nén hình ngũ giác mầu xanh, ký hiệu K10 gửi giám định là 1,84%. Khối lượng Ketamine có trong 36,679 gam mẫu các viên nén gửi giám định là 0,674 gam.

- Hàm lượng Ketamine trung bình trong mẫu các viên nén hình ngũ giác mầu xanh, ký hiệu K13 gửi giám định là 2,06%. Khối lượng Ketamine có trong 3,345 gam mẫu các viên nén gửi giám định là 0,068 gam.

- Không thể xác định được hàm lượng và khối lượng của MDMA trong hai mẫu ký hiệu K10 và K13 gửi giám định do lượng MDMA trong hai mẫu ký hiệu K10 và K13 đều có dạng vết, nhỏ hơn giới hạn định lượng của P pháp.

Tại bản kết kết luận giám định pháp y tử thi số 1207/C09-TT1, P4 ngày 15- 03-2021 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận: Trên cơ thể của chị Nguyễn Thanh P không có dấu vết tổn thương do tác động của ngoại lực; phổi hai bên căng, xung huyết; bệnh lý tim bẩm sinh: thông liên thất, teo nhỏ động mạch phổi biến chứng gây dày thất hai bên, xơ hóa van hai lá, van ba lá; khuyết thận phải. Vi thể: Phổi xung huyết, xuất huyết rất mạnh, tim thoái hóa, xơ hóa, xuất huyết rải rác, các tạng khác xung huyết mạnh. Trong mẫu máu có tìm thấy chất ma túy MDMA, không tìm thấy Ethanol (cồn). Trong mẫu phủ tạng, máu của tử thi P không tìm thấy các chất độc thường gặp. Nguyên nhân chết của Nguyễn Thị P: Suy hô hấp, suy tuần hoàn cấp do sử dụng ma túy tổng hợp trên người có bệnh lý tim bẩm sinh.

Quá trình điều tra, Trương Xuân T đã khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng như sau: Khoảng 18 giờ ngày 10-02-2021, T gọi điện thoại cho bạn là Trần Thị T1 và bảo với T1 rủ thêm bạn là chị Nguyễn Thanh P đi sử dụng ma túy cùng với T. T1 đồng ý. T hẹn T1 ra khu vực ngã tư đường Điện Biên + đường Giải Phóng, phường Cửa Bắc, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định đứng đợi. Sau đó T lấy 01 túi ma túy Ketamine cùng 01 túi ma túy tổng hợp thuốc “lắc”, bên trong có 01 viên còn nguyên và vài mảnh vỡ để ở trong lọ nhựa trên gác chỗ ở của T cho vào túi trong áo khoác ngoài T đang mặc, rồi T điều khiển xe ô-tô biển kiểm soát 18A-195.87 một mình đi đến ngã tư đường Điện Biên + đường Giải Phóng đón rồi chở T1 và P đến nhà nghỉ Việt Đức, địa chỉ: Đường Quốc lộ 10, tổ 24, phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Đến nơi T vào thuê phòng nghỉ số 301 rồi đưa chìa khóa phòng cho T1. T1 và P đi vào phòng trước, còn T vào sau. Khi vào phòng, T kéo chiếc bàn để giữa 2 chiếc giường, rồi T lấy 01 tờ tiền mệnh giá 2.000 Việt Nam đồng để lên mặt bàn. Sau đó T lấy túi ma túy Ketamine ở túi trong áo khoác ra đổ lên tờ tiền, dùng bật lửa miết nhỏ Ketamine, rồi cả 3 đều sử dụng ma túy. T sử dụng ma túy bằng hình thức hít Ketamine ngay trên tờ tiền, còn T1 và P sử dụng ma túy bằng hình thức cho Ketamine lên tay rồi hít. Sau đó T1 đi vào nhà vệ sinh thì T tiếp tục lấy túi ma túy tổng hợp thuốc “lắc” ra đổ hết vào cốc pha lẫn nước Coca. Khi T1 ở nhà vệ sinh đi ra, T đưa cho T1 cốc Coca có pha ma túy tổng hợp để T1 sử dụng, nhưng T1 không sử dụng mà chỉ có T và P sử dụng bằng hình thức uống. Một lúc sau T thấy P có biểu hiện mệt mỏi, nói nhảm, nằm ra giường, da mặt tái nhợt, nôn ói. T đến gần và dùng tay vỗ nhẹ vào mặt P nhưng không thấy P trả lời. T1 đến đỡ P dậy, còn T gói số ma túy Ketamine chưa sử dụng hết trên tờ tiền 2.000 đồng lại, cho vào trong túi ni-lông màu trắng mà trước đó T dùng đựng ma túy Ketamine rồi cho vào trong thùng rác. Chiếc bật lửa mà T dùng để nghiền ma túy T để trên giường. Sau đó T cõng P và đi cùng T1 xuống trả tiền phòng rồi dùng xe ô-tô biển kiểm soát 18A-195.87 đưa P vào Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định cấp cứu. Sau khi đưa P vào bệnh viện, T chở T1 về chỗ ở tại địa chỉ: Đường K, phường L, thành phố N, tỉnh Nam Định ngồi nói chuyện được một lúc thì cơ quan công an đến. Do hoảng sợ, T đã móc từ trong túi quần đang mặc ra 01 túi ni-lông màu trắng, bên trong có chứa Methamphetamine và 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong có chứa ma túy tổng hợp MDMA ném ra khe cửa ra vào. Khi khám xét chỗ ở của T, Cơ quan điều tra đã phát hiện, thu giữ 02 gói ma túy này.

Trong quá trình điều tra, T khai nhận: Toàn bộ số ma túy mà Cơ quan điều tra thu giữ trong quá trình khám xét chỗ ở của T và số ma túy thu giữ trong thùng rác ở trong phòng 301 nhà nghỉ Việt Đức đều là của T. Số ma túy này của một đối tượng tên Tuấn (không biết rõ lai lịch, địa chỉ) cho T. Sau đó T cất giấu số ma túy này, mục đích để sử dụng dần. Việc T tàng trữ ma túy thì T không nói cho ai biết. Tất cả số đồ vật và tài sản Cơ quan điều tra thu giữ khi khám xét nơi ở và trong chiếc xe ô-tô đều là của T. Ngoài ra, T còn khai quá trình thuê phòng nghỉ 301 nhà nghỉ Việt Đức thì T, T1 và P chỉ sử dụng ma túy chứ không quan hệ tình dục với nhau.

Tại Cơ quan điều tra, Trần Thị T1 khai: Vì T1 là người nghiện ma túy nên khoảng 18 giờ ngày 10-02-2021, khi T rủ đi sử dụng ma túy thì T1 đồng ý và rủ thêm P cũng là người nghiện đi sử dụng ma túy. Khi đến thuê phòng 301 nhà nghỉ Việt Đức thì T, T1 và P chỉ sử dụng ma túy và không có ai quan hệ tình dục. Số ma túy mà Cơ quan điều tra thu giữ được đều là của T, T1 hoàn toàn không biết.

Tại Cơ quan điều tra, chị Phạm Thị Vân là lễ tân và anh Lê Văn Thùy là người trông coi của nhà nghỉ Việt Đức khai: Vợ chồng Vân, Thùy là cháu họ của chủ nhà nghỉ Việt Đức, cùng làm thuê và ở luôn tại nhà nghỉ Việt Đức từ tháng 10/2020. Nhà nghỉ Việt Đức do anh Nguyễn Xuân Đức là chủ đứng tên đăng ký kinh doanh đồng thời cũng là người trực tiếp quản lý và chịu trách nhiệm mọi công việc kinh doanh của nhà nghỉ. Sáng ngày 10-02-2021, anh Đức có việc phải đi Hà Nội nên có nói với Thùy và Vân ở nhà, nếu có ai đến thuê phòng thì cho thuê và thu tiền phòng giúp anh Đức. Khoảng 18 giờ 45 phút ngày 10-02-2021 thì có Trương Xuân T đi ô-tô biển kiểm soát 18A-195.87 cùng 02 phụ nữ đến thuê phòng nghỉ 301. Cho đến khoảng 21 giờ 15 phút cùng ngày thì Trương Xuân T đi cùng 02 người phụ nữ xuống thanh toán tiền thuê phòng và đi về. Vân và Thùy không biết việc T thuê phòng 301 để cùng 2 người phụ nữ sử dụng ma túy.

Bản cáo trạng số 143/CT-VKSTPNĐ ngày 17-5-2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định truy tố bị cáo Trương Xuân T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung tăng nặng “Tái phạm nguy hiểm” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Trương Xuân T đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng như bản cáo trạng đã nêu.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo Trương Xuân T tại phiên tòa thể hiện hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung tăng nặng “Tái phạm nguy hiểm”. Do đó Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ nguyên nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Trương Xuân T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Trương Xuân T từ 06 năm tù đến 06 năm 06 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự để tịch thu tiêu hủy vật chứng là số ma túy và các đồ vật khác đã thu giữ. Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 4.000 đồng (bao gồm 02 tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng và 01 tờ tiền mệnh giá 2.000 đồng). Trả lại cho bị cáo 01 thẻ căn cước công dân, 01 giấy phép lái xe, 01 đăng ký xe máy, 06 chiếc điện thoại, 01 chiếc loa, 02 thẻ ngân hàng và số tiền 14.700.000 đồng, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo Trương Xuân T nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Trương Xuân T không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về tội danh:

Lời khai nhận tội của bị cáo Trương Xuân T tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay phù hợp với các chứng cứ khác như: Các biên bản khám xét và biên bản thu giữ vật chứng ngày 11-02-2021; các bản kết luận giám định số 230/GĐKTHS ngày 11-02-2021, số 231/GĐKTHS ngày 19-02-2021 và số 276/GĐKTHS ngày 26-02-2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định; bản kết luận giám định số 1571/C09-TT2 ngày 10-03-2021 của Viện khoa hình sự - Bộ Công an; bản kết kết luận giám định pháp y tử thi số 1207/C09-TT1, P4 ngày 15-03-2021 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an cùng các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án nên đã có đủ cơ sở khẳng định: Trong khoảng thời gian từ 18 giờ ngày 10-02-2021 đến 01 giờ ngày 11-02-2021, tại phòng nghỉ số 301 nhà nghỉ Việt Đức, địa chỉ: Quốc lộ 10, tổ 24, phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định và nhà ở tại địa chỉ: Đường K, phường L, thành phố N, tỉnh Nam Định, bị cáo Trương Xuân T đã có hành vi tàng trữ trái phép tổng cộng 1,741 gam Methamphetamine, 0,308 gam MDMA và 1,738 gam Ketamine để sử dụng thì bị phát hiện, bắt giữ.

Hành vi của bị cáo Trương Xuân T là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện; tổng khối lượng 03 chất ma túy mà bị cáo tàng trữ quy đổi tỷ lệ bằng 49,67% của khối lượng cao nhất đối với một chất ma túy quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự; ngoài ra trước đó bị cáo có 03 tiền án, đã bị xác định tái phạm nguy hiểm, chưa được xóa án tích nay lại phạm tội mới do cố ý. Vì vậy bị cáo Trương Xuân T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” thuộc trường hợp định khung tăng nặng “Tái phạm nguy hiểm”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì bị cáo Trương Xuân T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình nên sẽ được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. [4] Về hình phạt:

Hành vi phạm tội của bị cáo Trương Xuân T là nghiêm trọng, gây ảnh hưởng xấu đối với an ninh trật tự trên địa bàn thành phố Nam Định; bị cáo tàng trữ ma túy không chỉ để sử dụng cho bản thân mà còn cho người nghiện khác cùng sử dụng, gây ra hậu quả chết 01 người vì bị sốc ma túy; ngoài ra bị cáo là người có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị đưa ra xét xử nên cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, với mức hình phạt tương xứng đối với hành vi phạm tội của bị cáo. Tuy nhiên, do bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình nên Hội đồng xét xử sẽ giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung:

Xét thấy bị cáo Trương Xuân T không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử sẽ không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. [6] Về xử lý vật chứng:

Số ma túy thu giữ của bị cáo Trương Xuân T là vật cấm lưu hành nên sẽ tịch thu tiêu hủy. Đối với một số đồ vật khác đã thu giữ, hiện không còn giá trị sử dụng nên sẽ tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 4.000 đồng (bao gồm 02 tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng và 01 tờ tiền mệnh giá 2.000 đồng) mà bị cáo dùng để gói ma túy và làm dụng cụ (ống hút) để sử dụng ma túy nên sẽ tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

Đối với 01 thẻ căn cước công dân, 01 giấy phép lái xe, 01 đăng ký xe máy, 01 chiếc ví da, 06 chiếc điện thoại, 01 chiếc loa, 02 thẻ ngân hàng và số tiền 14.700.000 đồng thu giữ của bị cáo Trương Xuân T là giấy tờ tùy thân và các đồ vật, tài sản của cá nhân bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên sẽ trả lại cho bị cáo, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Đối với chiếc xe ô-tô MITSUBISHI XPANDER biển kiểm soát 18A-195.87, xét thấy không liên quan đến hành vi tàng trữ ma túy của bị cáo Trương Xuân T, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã xác minh và trả cho chủ sở hữu xe ô-tô là anh Nguyễn Quốc Khánh, sinh năm 1984, nơi cư trú: Số 216 đường Trần Hưng Đạo, phường Bà Triệu, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định là đúng quy định của pháp luật.

[7] Về các vấn đề khác trong vụ án:

Đối với chị Trần Thị T1 đã đi cùng và có sử dụng ma túy cùng với bị cáo Trương Xuân T, nhưng không biết bị cáo Trương Xuân T còn có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vì vậy Công an thành phố Nam Định đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là đúng quy định của pháp luật.

Đối với anh Nguyễn Xuân Đức là chủ nhà nghỉ Việt Đức đã có hành vi để cho người khác lợi dụng khu vực mình quản lý để sử dụng trái phép chất ma túy nên Công an thành phố Nam Định đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là đúng quy định của pháp luật.

Đối với chị Phạm Thị Vân là lễ tân và anh Lê Văn Thùy là người trông coi nhà nghỉ Việt Đức nhưng không biết bị cáo Trương Xuân T thuê phòng nghỉ để sử dụng ma túy. Vì vậy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định không có hình thức xử lý là đúng quy định của pháp luật.

[8] Về án phí:

Bị cáo Trương Xuân T bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trương Xuân T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trương Xuân T 06 năm tù (sáu năm tù). Thời hạn tù tính từ ngày 11-02-2021.

2. Xử lý vật chứng:

- Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự;

- Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

* Tịch thu tiêu hủy số ma túy và các đồ vật sau đây:

- Số ma túy trong phong bì niêm phong số 230/GĐKTHS (ký hiệu K1 + K2 + K11 + K12) của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định.

- Số ma túy trong phong bì niêm phong số 276/GĐKTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định.

- Các viên nén trong phong bì niêm phong số 1571/C09-TT2 của Viện Khoa học hình sự Bộ Công an.

- 01 (một) lọ nhựa có chữ REDVIAGRA và các viên nén trong phong bì niêm phong số 230/GĐKTHS (ký hiệu K9) của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định.

- 01 (một) thẻ Sim điện thoại Vinaphone, đã tháo thẻ sim trong phong bì niêm phong số 230/GĐKTHS (ký hiệu X1) của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định.

- 02 (hai) mẫu nước tiểu trong phong bì niêm phong số 231/GĐKTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định.

- 01 (một) hộp kim loại hình chữ nhật, trên mặt có chữ Thăng Long, bên trong hộp có 01 (một) cóng thủy tinh và 02 (hai) ống nhựa màu trắng.

- 07 (bảy) chiếc bật lửa ga màu đỏ, bên ngoài đều bọc ni-lông màu trắng.

- 01 (một) hộp giấy hình chữ nhật màu đen, kích thước khoảng 6x6x20cm, bên trong hộp có 01 (một) chiếc bật lửa khò màu đen chấm xanh trắng và 01 (một) bộ bình sử dụng ma túy tổng hợp, gồm 01 (một) bình thủy tinh cao khoảng 15cm, trên miệng bình có cắm 01 (một) cóng thủy tinh và 01 (một) ống nhựa màu trắng.

- 01 (một) lọ nhựa có chữ HAPPYDENT.

- 01 (một) chiếc ba-lô màu da cam - đen đã cũ.

- 01 (một) chiếc áo khoác màu xanh.

- 01 (một) chiếc áo khoác nam màu đen.

- 01 (một) vỏ bánh màu xanh, trên mặt có chữ “Challot”.

- 01 (một) túi ni-lông màu vàng.

- 01 (một) bánh màu vàng, trên mặt có chữ “Challot”.

- 01 (một) chiếc cốc thủy tinh màu trắng, được niêm phong trong túi niêm phong mã số: NS2A 070273.

- 01 (một) bật lửa ga màu đỏ đã cũ, được niêm phong trong túi niêm phong mã số: NS4A 190164.

- 02 (hai) bao cao su đã qua sử dụng, được niêm phong trong túi niêm phong mã số: NS3A 113690.

- 01 (một) túi ni-lông màu trắng, bên trong có chứa chất lỏng lẫn chất nhuyễn hóa, được niêm phong trong túi niêm phong mã số: NS2A 069047.

- 01 (một) chiếc váy màu đỏ đã cũ.

- 02 (hai) chiếc tất màu đen đã cũ.

- 01 (một) chiếc áo màu vàng đã cũ.

- 01 (một) chiếc quần lót màu trắng đã cũ.

- 04 (bốn) chiếc vỏ gối màu trắng.

- 02 (hai) chiếc vỏ ga trải giường màu trắng.

- 02 (hai) chiếc vỏ chăn màu trắng đã cũ.

- 04 (bốn) chiếc vỏ đệm màu đỏ đã cũ.

* Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 4.000 đồng. Cụ thể:

- 02 (hai) tờ tiền mệnh giá 1.000 Việt Nam đồng (một nghìn đồng) trong phong bì niêm phong số 230/GĐKTHS (ký hiệu X2) của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định.

- 01 (một) tờ tiền mệnh giá 2.000 Việt Nam đồng (hai nghìn đồng) trong phong bì niêm phong số 276/GĐKTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định.

* Trả lại cho bị cáo Trương Xuân T các giấy tờ, đồ vật, tài sản sau đây, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án:

- 01 (một) chiếc thẻ ngân hàng BIDV mang tên Trương Xuân T trong phong bì niêm phong số 230/GĐKTHS (ký hiệu K6) của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định.

- 01 (một) chiếc thẻ ngân hàng MB mang tên Trương Xuân T trong phong bì niêm phong số 230/GĐKTHS (ký hiệu K7) của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định.

- 01 (một) chiếc điện thoại di động màu trắng đã cũ, mặt sau có chữ NOKIA, được niêm phong trong túi niêm phong mã số: NS4A 185028.

- 01 (một) chiếc điện thoại di động màu trắng đen đã cũ, mặt sau có chữ OPPO, được niêm phong trong túi niêm phong mã số: NS2A 069035.

- 01 (một) chiếc điện thoại di động màu đen đã cũ, mặt sau có chữ IPHONE, được niêm phong trong túi niêm phong mã số: NS2A 069046.

- 01 (một) chiếc điện thoại di động màu đen đã cũ, mặt sau có chữ NOKIA, được niêm phong trong túi niêm phong mã số: NS4A 185149.

- 01 (một) chiếc điện thoại di động màu đen đã cũ, trên cả hai mặt đều có chữ Masstel, được niêm phong trong túi niêm phong mã số: NS4A 185147.

- 01 (một) chiếc điện thoại di động màu vàng trắng đã cũ, mặt sau có chữ IPHONE, được niêm phong trong túi niêm phong mã số: NS2A 069005.

- 01 (một) chiếc loa màu đen đã cũ, trên loa có chữ BOSE.

- 01 (một) chiếc ví da màu nâu đã cũ.

- 01 (một) thẻ căn cước công dân mang tên Trương Xuân T và 01 (một) giấy phép lái xe mang tên Trương Xuân T, được niêm phong trong túi niêm phong mã số: NS4A 185150.

- 01 (một) đăng ký xe máy biển kiểm soát 18B2-49644 mang tên Trương Xuân T.

- Số tiền 14.700.000 đồng (mười bốn triệu bảy trăm nghìn đồng).

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18-5-2021).

3. Án phí:

- Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Căn cứ Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Trương Xuân T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo:

Bị cáo Trương Xuân T có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo Trương Xuân T có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 140/2021/HS-ST

Số hiệu:140/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về