Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 136/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH T

BẢN ÁN 136/2024/HS-ST NGÀY 31/01/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 01 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố T, tỉnh T, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 132/2024/TLST-HS ngày 28 tháng 12 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 132/2024/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:

Lê Doãn H - sinh năm 1982 tại T; Nơi cư trú: Phố Cốc Hạ 2, phường Đ, thành phố T, tỉnh T; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Doãn T1 (đã chết) và bà Nguyễn Thị T2 (đã chết); bị cáo có vợ là Nguyễn Thị H1 (đã ly hôn) và 01 con.

Tiền án: Không Tiền sự: Năm 2021, bị Tòa án nhân dân thành phố T áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc 20 tháng, chấp hành xong ngày 01/3/2023.

Nhân thân: Năm 2004, Công an thị xã B, tỉnh T xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

Ngày 15/3/2007, Tòa án nhân dân thành phố T xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong án phạt tù ngày 22/01/2013.

Năm 2013 bị Tòa án nhân dân thành phố T áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc, chấp hành xong ngày 23/9/2015.

Năm 2021 Công an thành phố T xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Xâm hại sức khỏe thành viên trong gia đình”.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/10/2023 đến ngày 13/10/2023 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố T. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 00’ ngày 10/10/2023, Tổ công tác Công an phường L phối hợp cùng Công an phường Đ thành phố T tiến hành tuần tra tại đường Hàm Nghi, phố Hòa Bình, phường Đ, thành phố T, phát hiện Lê Doãn H có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra, tại chỗ H tự giác lấy từ túi quần bên phải giao nộp cho tổ công tác 01 gói giấy có dòng kẻ, kích thước (1x2,5)cm, bên trong là chất cục bột màu trắng. H khai nhận đây là ma túy loại Heroin của H cất giấu để sử dụng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với H về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ, niêm phong số ma túy để phục vụ công tác điều tra.

Về nguồn gốc ma túy, H khai khoảng 11 giờ 20 phút ngày 10/10/2023, H đến khu vực bãi đất trống đường Mai An Tiêm, phường L, thành phố T gặp một người xe ôm tên M (không rõ địa chỉ) đưa cho M 1.000.000 đồng nhờ M mua hộ ma túy, một lúc sau M quay lại đưa cho H 01 gói ma túy Heroin, H sử dụng hút một phần, phần còn lại đang cất giấu mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang.

Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T đã giám định và kết luận: chất cục bột màu trắng của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,176g loại heroine.

Về vật chứng vụ án: Mẫu vật hoàn lại sau giám định gồm toàn bộ vỏ bao gói mở niêm phong và 0,136g ma túy còn lại sau giám định. Tất cả được đựng trong một phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T phát hành. Toàn bộ vật chứng của vụ án đã được chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T để xử lý theo quy định của pháp luật.

Đối với người đàn ông tên M mà Lê Doãn H khai nhờ mua ma túy, Cơ quan điều tra đã xác M nhưng không có người nào tên M có đặc điểm như H khai báo, xung quanh khu vực trên không có camera giám sát, do đó không có căn cứ để xác định và xử lý.

Cáo trạng số 74/CT-VKS ngày 27/12/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, đã truy tố bị cáo Lê Doãn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố T, tỉnh T vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Xử phạt bị cáo từ 18 đến 24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung với bị cáo.

Về vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy hoàn lại sau giám định Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội:

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác phản ánh trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định:

Vào khoảng 12 giờ 00’ ngày 10/10/2023, tại đường N, phố B, phường Đ, thành phố T, Lê Doãn H đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,176g Heroine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang.

Hành vi nêu trên của bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và khung hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân thành phố T truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về căn cứ quyết định hình phạt đối với bị cáo:

Tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm, xâm phạm chính sách quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Tệ nạn ma túy đang là hiểm họa cho toàn xã hội, là nguyên nhân làm suy thoái kinh tế, là một trong những tác nhân làm lây lan các căn bệnh thế kỷ và làm gia tăng các loại tội phạm khác. Tình hình tội phạm ma túy đang diễn biến phức tạp, gây mất trật tự, trị an và an toàn xã hội trên địa bàn. Do vậy cần phải có mức hình phạt nghiêm khắc đối với hành vi phạm tội của bị cáo và áp dụng Điều 38 Bộ luật hình sự để cách ly bị cáo khỏi cộng đồng xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, tàng trữ ma túy với mục đích sử dụng, không có tính chất vụ lợi nên Hội đồng xét xử xét thấy không cần phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng và các tài sản đã thu giữ: - Số ma túy hoàn lại sau giám định được đựng trong 01 phong bì ma túy niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T, có hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự kèm chữ ký, chữ viết của Nguyễn Trần Đ, Trần Công T3, Lê Thành N là vật cấm tàng trữ, cấm lưu hành. Do đó cần áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự để tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016.

Tuyên bố: Bị cáo Lê Doãn H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Xử phạt Lê Doãn H 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/10/2013.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì ma túy niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T, có hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự kèm chữ ký, chữ viết của Nguyễn Trần Đ, Trần Công T3, Lê Thành N;

Toàn bộ vật chứng và tài sản hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố T, theo biên bản giao nhận vật chứng số 85/2024/THA ngày 04/01/2024 giữa Công an thành phố T với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T.

Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

7
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 136/2024/HS-ST

Số hiệu:136/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về