Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 136/2021/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 136/2021/HSST NGÀY 18/08/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 8 năm 2021, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 142/2021/TLST-HS ngày 30 tháng 7 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 134/2021/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 8 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Văn T; tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; sinh ngày 13 tháng 12 năm 1975, tại Thái Nguyên; nơi ĐKHKTT: Tổ 4, thị trấn S, huyện Đ, tỉnh T; nơi cư trú:  thành phố Đ, tỉnh Đ; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 10/12; con ông: Phan Ngọc C (Đã chết) và bà Hoàng Thị T - sinh năm 1952; vợ: Vũ Thị Th - sinh năm 1980; con: Có 02, lớn sinh năm 2008, nhỏ sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Sử dụng ma túy nhiều năm; bị tạm giữ từ ngày 17/4/2021, sau đó bị tạm giam cho đến nay; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lúc 17 giờ 45 phút ngày 17/4/2021, tại khu vực tổ 9, phường Mường Thanh; khi bị phát hiện, bị cáo Phạm Văn T đã tự giác lấy trong nẹp áo đang mặc, nộp cho Công an phường Mường Thanh, thành phố Điện Biên Phủ 04 viên nén màu hồng, gói bằng hai mảnh nilon màu trắng và một số chất bột màu trắng, gói bằng hai mảnh nilon màu hồng, một mảnh nilon màu trắng, một mảnh giấy màu xanh. Bị khai đó là hồng phiến và Heroine, bị cáo vừa mua của một người đàn ông không quen biết ở bản Xôm, xã Thanh An, huyện Điện Biên với giá 210.000 đồng để bị cáo sử dụng. Công an phường Mường Thanh đã lập biên bản, thu giữ toàn bộ vật chứng và tạm giữ chiếc xe máy BKS 27B1 - 105.34 bị cáo đang điều khiển.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình như đã nêu trên.

2. Các vấn đề khác:

Chiếc xe máy đã tạm giữ là xe bị cáo mượn của ông Nguyễn Văn Tr, ông Tr không biết việc phạm tội của bị cáo và đã nhận lại xe từ cơ quan điều tra.

Cơ quan điều tra đã gửi 04 nén màu hồng và số chất bột màu trắng đã thu giữ của bị cáo đi giám định. Bản kết luận giám định số 440/GĐ-PC09 ngày 24/4/2021 của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu viên nén màu hồng gửi giám định có khối lượng 0,39 gam; là chất ma túy loại Methamphetamine. Mẫu chất bột màu trắng gửi giám định có khối lượng 0,22 là chất ma túy loại Heroine. Các chất ma túy trên nằm trong danh mục các chất ma túy theo số thứ tự lần lượt là: Số 323, mục IIC, danh mục II và số 09, mục IA, danh mục I Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ; hoàn lại 0,33 gam Methamphetamine và 0,16 gam Heroine mẫu vật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại về kết luận giám định nêu trên.

3. Cáo trạng số 88/CT-VKSTPĐBP ngày 29/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ truy tố bị cáo về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm i khoản 1 Điều 249 BLHS. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố, bị cáo nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"; áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS: Xử phạt bị cáo từ 18 tháng đến 21 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; tịch thu tiêu hủy số vật chứng còn lại .

4. Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi HĐXX nghị án: Bị cáo đã biết việc làm của mình là vi phạm pháp luật, xin Hội đồng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với vật chứng thu giữ được, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Có đủ căn cứ để xác định: Bị cáo Phạm Văn T đã có hành vi cất giữ trái phép 0,39 gam Methamphetamine và 0,22 gam Hroine trong nẹp áo đang mặc, với mục đích để sử dụng và đã bị Công an phát hiện bắt giữ vào lúc 17 giờ 45 phút ngày 17/4/2021 tại tổ 9, phường Mường Thanh, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên.

Khon 1 Điều 249 BLHS quy định: "Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này".

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự; hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điều luật đã viện dẫn ở trên.

[2] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội; nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt:

Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền về quản lý các chất ma túy của Nhà nước, mà nguyên nhân là do bị cáo thiếu ý thức chấp hành pháp luật, sử dụng ma tuý; cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, để giáo dục cải tạo bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm nói chung. Áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình theo Điều 51 BLHS đối với bị cáo. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; mức hình phạt và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX áp dụng đối với bị cáo là có cơ sở chấp nhận.

[3] Về hình phạt bổ sung: Theo Khoản 5 Điều 249 BLHS thì: "Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản". Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo thì bị cáo không có việc làm và thu nhập ổn định, không có tài sản gì đáng kể, do đó HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Vật chứng và các vấn đề khác: Số ma túy còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành, tịch thu để hủy cùng những vật dùng để gói ma túy không còn giá trị. Bị cáo không quen biết người bán ma tuý cho mình nên không có cơ sở điều tra làm rõ. Người cho bị cáo mượn xe không biết việc phạm tội của bị cáo và đã nhận lại xe, nên không đề cập xử lý.

[5] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. [6] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Điện Biên Phủ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

2. Hình phạt: Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 17/4/2021.

3. Vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS; khoản 1 và điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS: Tịch thu để hủy 0,33 gam Methamphetamine và 0,16 gam Heroine; 05 mảnh nilon và 01 mảnh giấy (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 02 tháng 8 năm 2021 giữa Chi cục thi hành án dân sự và Cơ quan cảnh sát điều tra).

4. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (18/8/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 136/2021/HSST

Số hiệu:136/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về