TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH Đ
BẢN ÁN 136/2020/HS-ST NGÀY 25/03/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 25 tháng 3 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 112/2020/TLST-HS ngày 06 tháng 3 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 134/2020/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 3 năm 2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: Trần Ngọc B (tên gọi khác: Không), sinh năm: 1995 tại tỉnh Đ;
Nơi đăng ký HKTT: Số nhà 1122, tổ 3, ấp s, xã C, huyện L, tỉnh Đ. Chổ ở hiện nay: Số nhà 1122, tổ 3, ấp S, xã C, huyện L, tỉnh Đ.
Nghề nghiệp: Thợ cơ khí; Trình độ học vấn: Lớp 07/12;
Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;
Con ông Trần Văn H, sinh năm 1966 và bà Nghiêm Thị N, sinh năm 1967.
Gia đình có 04 anh chị em, bị cáo là con thứ ba và chưa có vợ, con.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị bắt quả tang và tạm giữ từ ngày 31/10/2019 đến ngày 08/11/2019.
Hiện bị cáo đang bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh số 583 ngày 08/11/2019 - (Bị cáo có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trần Ngọc B là người sử dụng trái phép chất ma túy. Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 31/10/2019, B một mình đi đến khu vực chợ K8, thuộc khu phố 7, L, thành phố B, tỉnh Đ mua của 01 người đàn ông tên Tài (không rõ nhân thân, lai lịch) 01 gói ma túy tổng hợp (hàng đá) với giá 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng). Sau khi mua, B cất ma túy trong người rồi đi đến nhà không số, thuộc tổ 24A, khu phố 6, L, thành phố B, tỉnh Đ (nhà bỏ trống, không có người ở), lấy một phần ma túy đã mua ra sử dụng, phần còn lại B để trên sàn nhà cạnh vị trí B ngồi để sử dụng sau.
Lúc 20 giờ ngày 31/10/2019, tại nhà không số thuộc tổ 24A, khu phố 6, L, thành phố B, tỉnh Đ, khi B đang để ma túy trên sàn nhà cạnh chỗ B ngồi thì bị Công an L kiểm tra phát hiện, bắt quả tang cùng tang vật.
Tại Cơ quan điều tra, Trần Ngọc B khai nhận hành vi phạm tội như trên.
Vật chứng thu giữ: 01 gói nylon chứa tinh thể màu trắng (đã được niêm phong có chữ ký của Trần Ngọc B và dấu hình tròn đỏ của Công an L).
Tại Kết luận giám định số 1407/PC09-GĐMT ngày 08/11/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ đã kết luận:
“Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,5388 gam, loại Methamphetamine.” Tại Bản cáo trạng số 138/CT-VKS-BH ngày 04 tháng 3 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố các bị cáo Trần Ngọc B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa:
- Bị cáo Trần Ngọc B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã nêu. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là sai, vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
- Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
1. Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Trần Ngọc B từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.
3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ lượng ma túy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B thu giữ sau giám định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung vụ án:
Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội là vào lúc 20 giờ ngày 31/10/2019, tại nhà không số, thuộc tổ 24A, khu phố 6, L, thành phố B, tỉnh Đ, bị cáo đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,5388 gam ma túy, loại Methamphetamine thì bị Công an L phát hiện bắt quả tang.
[3] Về tội danh:
Xét thấy, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có căn cứ để xác định hành vi phạm tội của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, như Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của mình.
[4] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội:
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, làm gia tăng các tệ nạn xã hội. Do đó, cần phải có hình phạt nghiêm cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để có điều kiện giáo dục bị cáo thành người tốt và răn đe, phòng ngừa tội phạm nói chung.
[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào theo Điều 52 Bộ luật hình sự.
[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Xét thấy, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có nhân thân tốt (chưa có tiền án, tiền sự), có cha là thương binh nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc, xem xét giảm nhẹ khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.
[7] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy toàn bộ lượng ma túy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B thu giữ sau giám định.
Đối với đối tượng tên Tài (chưa rõ lai lịch) bán ma túy cho bị cáo, Cơ quan điều tra đang tiếp tục xác minh, xử lý sau.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[9] Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017;
Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Căn cứ các Điều 136, 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
1. Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Trần Ngọc B 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt thi hành án nhưng được trừ đi thời gian tạm giữ trước từ ngày 31/10/2019 đến ngày 08/11/2019.
2. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ lượng ma túy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B thu giữ sau giám định (đã được niêm phong có chữ ký của bị cáo và dấu hình tròn đỏ của Công an L) (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 24/3/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B) 3. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 136/2020/HS-ST
Số hiệu: | 136/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/03/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về