TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 134/2022/HS-ST NGÀY 27/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 27 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 127/2022/TLST - HS ngày 14 tháng 9 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 131/2022/QĐXXST- HS ngày 16/9/2022 đối với:
Bị cáo: Lê Văn T, sinh ngày 10 tháng 02 năm 1992 tại Thái Bình. Nơi cư trú: Thôn PH, xã VP, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Quy N và bà Trịnh Thị N; bị cáo: chưa có vợ, con; tiền án: Không; tiền sự: Không. Nhân thân: Bản án số 150/2013/HSST ngày 04/9/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình , tỉnh Thái Bình xử phạt 02 năm tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 18/6/2013, chấp hành xong hình phạt tù ngày 08/02/2015. Thi hành xong án phí hình sự sơ thẩm ngày 04/11/2013. Bị cáo tạm giữ từ ngày 19/7/2022 đến ngày 22/7/2022, chuyển tạm giam đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình. Bị cáo có mặt tại phiên Tòa.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Anh Hoàng Minh K, sinh năm 1983. Nơi cư trú: Thôn PH, xã VP, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.
* Người chứng kiến:
- Anh Trần Xuân Q, sinh năm 1969. Nơi cư trú: Thôn LC, xã VC, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.
- Anh Dương Ngọc H, sinh năm 1985. Nơi cư trú: Số nhà 10, ngõ 313, đường LQĐ, tổ 05, phường BX, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình. (Vắng mặt: Anh K, anh Q, anh H).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên Tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 19/7/2022, Lê Văn T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu xanh, biển số 17B9 - 322.82 từ nhà đến khu vực đường Trần Nhân Tông, tổ 08, phường Trần Hưng Đạo, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình gặp và mua của một người nam giới khoảng 23 tuổi (không biết tên, địa chỉ) 200.000 đồng được 01 gói ma túy Heroine gói bằng giấy bạc màu trắng, cầm ở lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe đi tìm nơi để sử dụng cho bản thân. Khoảng 19 giờ cùng ngày khi T đi đến khu vực bãi đất trống thôn Phúc Thượng, xã Vũ Phúc, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình thì bị tổ công tác Công an thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình phát hiện và yêu cầu kiểm tra. Trước sự chứng kiến của anh Trần Xuân Q, anh Dương Ngọc H, T tự giác đưa từ lòng bàn tay trái ra giao nộp cho tổ công tác 01 gói ma túy và khai nhận là Heroine vừa mua để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác mở kiểm tra thấy bên ngoài gói bằng giấy bạc màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục, sau đó niêm phong gói ma túy trong phong bì theo quy định. Tổ công tác yêu cầu T đưa phương tiện và mời những người chứng kiến về trụ sở Công an xã Vũ Phúc, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình để làm việc. Tại đây, kiểm tra người T thu tại túi quần bên phải 01 điện thoại Nokia 150 màu đen. Kiểm tra xe mô tô của T không phát hiện thu giữ gì liên quan đến ma túy, ngoài ra không thu giữ gì, quản lý gì khác.
Bản kết luận giám định số 296/KL-KTHS(MT) ngày 20/7/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, kết luận: Mẫu vật quản lý của Lê Văn T gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,1813 gam.
Tại phiên Tòa bị cáo T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình đã truy tố đối với bị cáo.
Tại bản cáo trạng số 143/CT- VKSTPTB ngày 13/9/2022, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình đã truy tố bị cáo Lê Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên Tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo T về tội danh và điều luật như bản cáo trạng số 143/CT- VKSTPTB và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Lê Văn T. Xử phạt bị cáo T từ 01 năm 03 tháng tù đến 01 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 19/7/2022. Không áp dụng hình phạt bổ sung, đề nghị xử lý vật chứng và án phí.
Bị cáo T không có ý kiến gì tranh luận với Kiểm sát viên về bản luận tội đối với bị cáo tại phiên Tòa. Bị cáo T nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên,Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố vụ án được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục. Bị cáo và người chứng kiến không khiếu nại hay có ý kiến gì nên các hành vi, quyết định tố tụng trong vụ án này là hợp pháp.
[2]. Về căn cứ kết tội đối với bị cáo: Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên Tòa hôm nay phù hợp với lời khai trong giai đoạn điều tra, truy tố và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; kết luận giám định số 296/KL-KTHS(MT) ngày 20/7/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; biên bản xác minh ngày 23/7/2022, tại Công an xã Vũ Phúc, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình: Từ nhỏ đến trước ngày 16/11/2017 tên là Lê Văn T1. Ngày 16/11/2017 làm thủ tục đăng ký khai sinh tên Lê Văn T, sau đó làm căn cước công dân tên Lê Văn T; lời khai của người chứng kiến anh Trần Xuân Q, anh Dương Ngọc H và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Từ những tình tiết và chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 19 giờ ngày 19/7/2022, tại khu vực bãi đất trống thôn Phúc Thượng, xã Vũ Phúc, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình, Lê Văn T có hành vi tàng trữ trái phép trên người 0,1813 gam ma túy, loại Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân, đã bị tổ công tác Công an thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình phát hiện bắt quả tang. Do đó, hành vi của bị cáo T đã phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người đúng tội đúng pháp luật.
Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
… c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
… 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
[3]. Đánh giá tính chất mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo T đã có hành vi tàng trữ trên người một gói ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,1813 gam, mục đích để sử dụng cho bản thân. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền và các quy định của Nhà nước đối với chất ma túy gây ảnh hưởng xấu đến công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy.
[4]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ của bị cáo: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ “Thành khẩn khai báo” nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5]. Về hình phạt:
[5.1]. Về hình phạt chính: Căn cứ vào tính chất mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo và nhân thân cùng các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cần thiết phải xử phạt bị cáo bằng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục bị cáo tạo điều kiện cho bị cáo có cơ hội cai được ma túy đồng thời có tác dụng phòng ngừa tội phạm chung.
[5.2].Về hình phạt bổ sung: Bị cáo T có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, bản thân bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên xét thấy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6]. Về vật chứng:
[6.1]. Đối với số Heroine, Cơ quan điều tra đã thu giữ của bị cáo T còn lại sau khi giám định là 0,1517 gam và bao gói, cần áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự để tịch thu, tiêu hủy là phù hợp với quy định của pháp luật.
[6.2]. Đối với một điện thoại Nokia 150 màu đen là tài sản thuộc sở hữu của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật.
[6.3]. Đối với một một xe mô tô Yamaha - Exciter màu xanh, biển số 17B9 - 322.82 bị cáo T mượn chiếc xe trên của anh Hoàng Minh K đi mua ma túy nhưng anh K không biết bị cáo sử dụng vào việc phạm tội chiếc xe trên là tài sản hợp pháp của anh K , Hội đồng xét xử cần chấp nhận Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Bình trả lại chiếc xe trên cho anh K là phù hợp với quy định của pháp luật.
[7]. Về nguồn gốc Heroine: Bị cáo Lê Văn T mua ma túy của một người nam giới khoảng 23 tuổi không biết tên và địa chỉ tại khu vực đường Trần Nhân Tông, tổ 08, phường Trần Hưng Đạo, thành phố Thái Bình tỉnh Thái Bình nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình không có căn cứ để điều tra, xử lý.
[8]. Về án phí: Bị cáo T phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
[9].Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106; Điều 135; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 23 Nghị quyết số 326/2016 ngày 30/12/2016 của Quốc hội về án phí lệ phí Tòa án.
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lê Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lê Văn T 01 (Một) năm 02 (Hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ ngày 19/7/2022.
3. Về vật chứng:
3.1. Tịch thu, tiêu hủy số Heroine thu được của bị cáo Lê Văn T còn lại sau khi giám định là 0,1517 gam và bao gói.
3.2. Trả lại một điện thoại Nokia 150 màu đen cho bị cáo Lê Văn T.
3.3. Chấp nhận Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Bình trả lại anh Hoàng Minh Khương một xe mô tô Yamaha - Exciter màu xanh, biển số 17B9 - 322.82.
(Số vật chứng trên Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Bình đã chuyển sang Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình có đặc điểm mô tả như trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/9/2022).
4. Về án phí: Bị cáo Lê Văn T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 27/9/2022. Anh K có quyền có kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 134/2022/HS-ST
Số hiệu: | 134/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về