Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 134/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA – TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 134/2021/HS-ST NGÀY 12/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 12 tháng 3 năm 2021, tại Hội trường 7- Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 65/2021/TLST-HS ngày 29 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 118/2021/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:

Đỗ Tấn L . Tên gọi khác: Không - Giới tính: Nam. Sinh năm 1997, tại Đắk Nông. Nơi cư trú: Thôn N1, xã N2, huyện K, tỉnh Đ. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Không. Trình độ học vấn: Lớp 12/12. Họ tên cha: Đỗ Phước L1, sinh năm 1973 (còn sống). Họ tên mẹ: Nguyễn Thị Kim L2, sinh năm 1975 (còn sống). Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất, chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt quả tang ngày 18-10-2020, tạm giữ từ ngày 19-10-2020 đến ngày 27-10-2020 chuyển tạm giam theo Lệnh số 1400 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đỗ Tấn L là người sử dụng trái phép chất ma túy. Khoảng 19 giờ ngày 16- 10-2020, L đến khu vực quận T, thành phố Hồ Chí Minh, mua của người đàn ông (không rõ tên, địa chỉ) 03 (Ba) gói ma túy tổng hợp (hàng đá) với giá 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) để sử dụng. Sau đó, L mang số ma túy trên về phòng trọ của L tại phường T, Quận 9, thành phố H sử dụng hết 01 (Một) gói ma túy, 02 (Hai) gói ma túy còn lại L dồn thành 01 (Một) gói rồi cất giấu dưới yên xe mô tô biển số 48C1- 071.25 để lúc khác sử dụng.

Vào khoảng 22 giờ 40 phút ngày 18-10-2020, L điều khiển xe mô tô biển số 48C1- 071.25 đang cất giấu số ma túy nêu trên, đi đến đoạn đường Huỳnh Văn Nghệ thuộc khu phố 2, phường B, thành phố B, tỉnh Đồng Nai thì bị Tổ tuần tra Công an phường B kiểm tra phát hiện, bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, chuyển giao Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bxử lý.

- Vật chứng thu giữ liên quan đến việc phạm tội: 01 (Một) gói nylon bên trong chứa tinh thể màu trắng (niêm phong gửi giám định). (Bút lục 02-04, 06).

- Tài sản không liên quan đến việc phạm tội, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu: 01 (Một) xe mô tô biển số 48C1- 071.25 do L sử dụng để cất giấu ma túy. Kết quả điều tra xác định đây là tài sản thuộc quyền sở hữu của ông Đỗ Phước L1, sinh năm 1973, ngụ tại: thôn N1, xã N2, huyện K, tỉnh Đắk Nông (cha của L ) cho L mượn sử dụng. Ông L1 không biết việc L tàng trữ trái phép chất ma túy trong xe nên Cơ quan điều tra đã giao trả xe cho ông L1. (Bút lục 43, 45, 50-56) - Tại Kết luận giám định số 2441/KLGĐ-PC09 ngày 26-10-2020 của Giám định viên Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai đã kết luận:

“Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,1496 gam, loại: Methamphetamine”. (Bút lục 07) - Bản cáo trạng số: 98/CT-VKSBH-HS ngày 27 tháng 01 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai truy tố Đỗ Tấn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bphát biểu luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: tuyên bố bị cáo Đỗ Tấn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Đỗ Tấn L từ 01 năm – 01 năm 06 tháng tù, xử lý vật chứng và buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

- Tại phiên tòa bị cáo trình bày: bị cáo thống nhất với hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố, không có ý kiến gì đối với kết luận giám định.

- Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ. Quá trình điều tra bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu có tại hồ sơ như biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, bản kết luận giám định. Đã có đủ cơ sở kết luận:

Đỗ Tấn L là đối tượng nghiện ma túy. Vào khoảng 22 giờ 40 phút ngày 18-10-2020, tại đoạn đường Huỳnh Văn N thuộc khu phố 2, phường B, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, Đỗ Tấn L có hành vi tàng trữ trái phép 0,1496 gam ma túy loại Methamphetamine (theo kết luận giám định số 2441/KLGĐ-PC09 ngày 26-10-2020 của Giám định viên Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai) thì bị Công an phường B phát hiện bắt quả tang.

Như vậy, bị cáo Đỗ Tấn L đã có hành vi tàng trữ Methamphetamine, đây là chất ma túy nằm trong danh mục các chất cấm theo quy định của Chính phủ. Hành vi của bị cáo Đỗ Tấn L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố và viện dẫn.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự, trị an và an ninh xã hội, xâm phạm đến chính sách của Nhà nước Việt Nam về đấu tranh phòng ngừa và loại bỏ ma túy ra khỏi cuộc sống xã hội. Hội đồng xét xử xét thấy, cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm mục đích răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Đối với xe mô tô biển số 48C1- 071.25 là tài sản thuộc quyền sở hữu của ông Đỗ Phước L1, sinh năm 1973, ngụ tại: thôn N1, xã N2, huyện K, tỉnh Đ (cha của L ) cho L mượn sử dụng. Ông L1 không biết việc L sử dụng xe để tàng trữ trái phép chất ma túy nên Cơ quan điều tra đã giao trả xe cho ông L1 là đúng quy định.

Đối với người đàn ông (không rõ tên, địa chỉ) có hành vi bán ma túy cho L , Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau là đúng quy định.

[3] Xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy toàn bộ lượng ma túy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B thu giữ sau giám định.

(Vật chứng nêu trên được thể hiện tại Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 23/02/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B).

[4] Về án phí hình sự sơ thẩm:

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Nhận định về phần trình bày của Kiểm sát viên, bị cáo tại phiên tòa:

- Đối với phần trình bày của Kiểm sát viên: về tội danh truy tố và mức hình phạt đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp nên được chấp nhận.

- Đối với phần trình bày của bị cáo sẽ được Hội đồng xét xử xem xét khi giải quyết vụ án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106, 136, 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Đỗ Tấn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Đỗ Tấn L 01 (một) năm tù, thời hạn tù được tính từ ngày bị bắt quả tang 18-10-2020.

2. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số lượng ma túy còn lại sau giám định.

(Vật chứng nêu trên được thể hiện tại Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 23/02/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Đỗ Tấn L phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí.

4. Quyền kháng cáo:

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

117
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 134/2021/HS-ST

Số hiệu:134/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về