Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 133/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 133/2022/HS-ST NGÀY 28/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 06 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Long Biên, Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 132/2022/TLST-HS ngày 10 tháng 06 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 134/2022/QĐXXST-HS ngày 15/06/2022 đối với bị cáo:

NGUYỄN SỸ L – sinh năm: 1985; HKTT và chỗ ở: Tổ A, phường T, quận Long Biên, Hà Nội; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Tự do; con ông Nguyễn Sỹ L và bà Lê Thị T Nga; Vợ: La Thị L1 (Ly hôn); có 02 con lớn SN 2008, nhỏ SN 2010; TATS: Theo danh chỉ bản số 061 ngày 08/01/2022 của Công an quận Long Biên lập và lý lịch địa phương cung cấp thì bị cáo không có tiền án, tiền sự.

Bị cáo bị bắt ngày 28 – 12 - 2021. (Có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Lục Thị Đ - Sinh năm: 1998 HKTT: Bản C, N, Quan Hóa, Thanh Hóa (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án Đ tóm tắt như sau:

Hồi 14h00’ ngày 28/12/2021, tổ công tác Công an phường Sài Đồng, quận Long Biên, Thành phố Hà Nội làm nhiệm vụ tại khu vực Tổ 11 Thượng Thanh, Long Biên, Hà Nội phát hiện Nguyễn Sỹ L (Sinh năm: 1985; HKTT: Tổ 29, phường Thượng Thanh, quận Long Biên, Thành phố Hà Nội) đang điều khiển xe máy Exciter màu đỏ, BKS: 36B4 - 996.94, phía sau chở anh Trần Phương Nguyên (Sinh năm: 1995; HKTT: Nghĩa Tân, Nghĩa Đàn, Nghệ An) và Nguyễn Thị Trang (SN;1995, HKTT: An Đào, Trâu Quỳ, Hà Nội) có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra, L đã ném từ lòng bàn tay phải xuống đất 01 túi nilon trắng. Tổ công tác yêu cầu L nhặt lên, mở ra bên trong túi nilon có chứa các tinh thể màu trắng. Tại chỗ, L khai nhận là ma túy đá, mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã lập biên bản thu giữ tang vật và đưa cả 03 đối tượng về trụ sở làm rõ.

Tang vật thu giữ: 01 túi nilon bên trong chứa các tinh thể màu trắng; 01 điện thoại di động Mastel màu đen đỏ đã qua sử dụng và 01 xe mãy nhãn hiệu Yamaha Exiter BKS: 36B4- 996.94.

Tại bản kết luận giám định ma túy số 81 ngày 04/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilong là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng: 0.392 gam.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Sỹ L khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy nên khoảng 12h30’ ngày 27/12/2021, L bắt xe buýt từ Cầu Chui, Long Biên đến Từ Sơn, Bắc Ninh mua ma túy sử dụng cho bản thân. Tại đây L gặp và mua 01 túi nilong bên trong chứa ma túy đá của một người phụ nữ không quen biết với giá 300.000 đồng và cất vào túi quần phía trước L đang mặc rồi ở lại Bắc Ninh chơi. Khoảng 11 giờ ngày 28/12/2021, L bắt xe về phố Sài Đồng, Long Biên và gọi cho bạn là anh Trần Phương Nguyên đến đón. Anh Nguyên có điều khiển xe máy Exciter, BKS: 35B- 996.94 chở theo chị Nguyễn Thị Trang lên đón L . Sau đó, L điều khiển chiếc xe máy trên chở theo Nguyên, Trang đi về nhà và cầm theo gói ma túy trong lòng bàn tay phải. Khi đi đến trước cửa nhà số 37 ngõ 20, Tổ 11 phường Thượng Thanh, quận Long Biên, Thành phố Hà Nội thì bị lực lượng công an kiểm tra, thu giữ gói ma túy trên.

Bản cáo trạng số: 136/CT-VKS ngày 31 – 05 - 2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên đã truy tố Nguyễn Sỹ L về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015.

Tại phiên tòa:

Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của người làm chứng phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra thấy rằng: Hành vi của bị cáo Nguyễn Sỹ L đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Hành vi của bị cáo vi phạm vào điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS 2015.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 của BLHS 2015 và Điều 106 của BLTTHS.

Về hình phạt: Đề nghị xử phạt bị cáo L mức án từ 18 đến 24 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng:

- Đề nghị tịch thu tiêu hủy 0,392 gam ma túy Methamphetamine.

- Đề nghị cho thi hành trả lại bị cáo Nguyễn Sỹ L 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen, đã qua sử dụng thu giữ của Nguyễn Sỹ L .

- Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Exciter, BKS: 36B4 – 996.94, số khung: 215199, số máy 228106, tạm giữ của Nguyễn Sỹ L . Quá trình điều tra xác định: Tháng 8/2019, chị Lục Thị Đ (Sinh năm: 1998; HKTT: Bản Cua, Nam Tiến, Quan Hóa, Thanh Hóa) mua và đăng ký chính chủ chiếc xe máy trên. Sau đó, chị Đ và chồng là Cao Văn Thêm (SN: 1994; HKTT: Bản Cua, Nam Tiến, Quan Hóa, Thanh Hóa) cùng lên Hà Nội để làm công nhân và ở trọ tại Đào Nguyên, Trâu Quỳ, Gia Lâm, Hà Nội. Đến ngày 28/12/2021, Trần Phương Nguyên mượn anh Thêm chiếc xe máy trên. Nguyên sử dụng chiếc xe máy đèo Trang đến đón L và bị cơ quan công an phát hiện, thu giữ. Việc Nguyên sử dụng chiếc xe máy trên đi đâu làm gì chị Đ hoàn toàn không biết. Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trao trả chiếc xe máy trên cho chị Lục Thị Đ là chủ sở hữu hợp pháp. Chị Đ đã nhận xe và không yêu cầu đề nghị gì khác.

Nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã Đ thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra-Công an quận Long Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai báo thành khẩn và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật-tài liệu, bản kết luận giám định, lời khai người làm chứng cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dụng bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 14h00’ ngày 28/12/2021, tại khu vực Tổ 11 Thượng Thanh, Long Biên, Hà Nội, bị cáo Nguyễn Sỹ L có hành vi tàng trữ trái phép 0,392 gam ma túy Methamphetamine mục đích sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Công an phường Thượng Thanh, quận Long Biên phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

[3] Hành vi của bị cáo Nguyễn Sỹ L đã cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt Đ quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo đã cố ý xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy Đ Bộ luật hình sự bảo vệ. Vì vậy, cần phải nghiêm trị đối với bị cáo.

- Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

[4] Về tình tiết tăng nặng TNHS:

- Nhân thân bị cáo không có tiền án, tiền sự. Vì vậy, bị cáo không có tình tiết tăng nặng TNHS.

Trong khi Đảng và Nhà nước ta đang kiên quyết đấu tranh để loại trừ tệ nạn ma túy ra khỏi đời sống xã hội thì hành vi phạm tội của bị cáo xét về tính chất, mức độ thấy cần phải xử phạt bị cáo một mức án tù trong khung hình phạt nhằm cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ TNHS: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn nhận tội, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015.

- Về hình phạt bổ sung:

[6] Xét bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, không có khả năng thi hành phạt bổ sung bằng tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là có căn cứ.

- Về xử lý vật chứng:

[7] - Tịch thu, tiêu hủy 0,392 gam ma túy Methamphetamine là vật nhà nước cấm lưu hành.

- Cho thi hành trả lại bị cáo Nguyễn Sỹ L 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen, đã qua sử dụng thu giữ của Nguyễn Sỹ L do không liên quan đến tội phạm.

Đại diện VKSND quận Long Biên đề nghị về hình phạt chính, hình phạt bổ sung, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS và xử lý vật chứng là có căn cứ và phù hợp với nhận định của HĐXX.

- Về vấn đề khác:

[8] - Đối với người phụ nữ bán ma túy cho L tại Từ Sơn, Bắc Ninh do L khai không biết tên, tuổi, địa chỉ ở đâu, ngoài lời khai của L , Cơ quan điều tra không có tài liệu, chứng cứ nào khác. Do vậy, không có căn cứ để xác minh, làm rõ.

- Đối với Trần Phương Nguyên và Nguyễn Thị Trang, tài liệu điều tra thể hiện Nguyên và Trang không biết việc L tàng tữ trái phép chất ma túy. Do vậy Cơ quan điều tra Công an quận Long Biên không xem xét, xử lý. Tiến hành xét nghiệm nước tiểu của Nguyên và Trang, kết quả Nguyên có kết quả dương tính với ma túy, Trang có kết quả âm tính với ma túy. Công an quận Long Biên đã đưa Trần Phương Nguyên đến cơ sở cai nghiện ma túy số 6 để cai nghiện theo quy định pháp luật, không đặt vấn đề xử lý với Trang.

- Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Exciter, BKS: 36B4 – 996.94, số khung: 215199, số máy 228106, tạm giữ của Nguyễn Sỹ L . Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trao trả chiếc xe máy trên cho chị Lục Thị Đ là chủ sở hữu hợp pháp. Chị Đ đã nhận xe và không yêu cầu đề nghị gì khác nên HĐXX không xem xét giải quyết.

- Về án phí:

[9] Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

- Về quyền kháng cáo:

[10] Bị cáo và người tham gia tố tụng Đ quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Sỹ L phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự 2015:

- Xử phạt Bị cáo Nguyễn Sỹ L 20 (Hai mươi) tháng tù. Thời hạn tù Đ tính từ ngày 28/12/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015 và khoản 1 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu, tiêu hủy 0,392 gam ma túy Methamphetamine .

(Hiện đang lưu giữ tại Kho tang vật Công an quận Long Biên theo Phiếu nhập vật chứng ngày 29/03/2022).

- Cho thi hành trả lại bị cáo Nguyễn Sỹ L 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen, đã qua sử dụng.

(Hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Long Biên theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 31/05/2022)

3. Về án phí: Căn cứ khoản 1 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 bộ luật Tố tụng Hình sự. Án xử công khai sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

138
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 133/2022/HS-ST

Số hiệu:133/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về