Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 13/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ MỸ, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 13/2022/HS-ST NGÀY 02/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 02 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 13/2022/TLST-HS ngày 11 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 525/2022/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo:

Huỳnh Đức T, sinh năm 2000; tại: Huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định; nơi cư trú: Thôn VTr, xã MP, huyện PM, tỉnh BĐ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Văn L và bà Nguyễn Thị S; vợ, con: Không; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 13/11/2021 chuyển sang tạm giam từ ngày 16/11/2021, bị cáo hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Phù Mỹ, có mặt:

- Người tham gia tố tụng khác:

Người làm chứng:

Huỳnh Văn L, sinh năm 1969; nơi cư trú: Thôn VTr, xã MP, huyện PM, tỉnh BĐ; có mặt.

Huỳnh Đức Tr, sinh năm 1996; nơi cư trú: Thôn VTr, xã MP, huyện PM, tỉnh BĐ; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 06/11/2021, Huỳnh Đức T gọi điện thoại cho một người tên K ở TP. Hồ Chí Minh (không rõ lai lịch) nhờ mua ma túy đá với số tiền 1.000.000 đồng để về sử dụng cá nhân. K đồng ý và thỏa thuận sẽ gởi ma túy về bằng đường xe khách Bắc Nam, còn T chuyển tiền qua ứng dụng “MOMO”. Đến đêm ngày 07/11/2021, xe khách (không rõ biển số) đến khu vực ĐN, MP gọi T ra để lấy hàng là một vỏ hộp điện thoại. Sau khi lấy hàng, T mở ra kiểm tra thì bên trong có bốn gói ma túy đá và một cái nỏ thủy tinh dùng để sử dụng ma túy. T cầm ma túy về nhà và một mình sử dụng hết một gói ma túy, số ma túy còn lại T cất giữ trong ba lô. Đến ngày 11/11/2021, tại nhà T tiếp tục lấy một gói ma túy ra sử dụng hết, hai gói ma túy còn lại T cất trong ba lô để ở phòng ngủ. Đến khoảng 17 giờ ngày 13/11/2021, do T có nhiều biểu hiện bất thường nên gia đình nghi ngờ T sử dụng chất ma túy và báo cáo Công an xã Mỹ Phong đến kiểm tra, phát hiện và lập biên bản phạm tội quả tang.

Tại kết luận giám định số 337/PC09 ngày 16/11/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Định kết luận: Các hạt tinh thể không màu đựng bên trong 01 (một) gói nilon kích thước (2,5 x 1,2)cm (ký hiệu A1) gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,0971 gam là (loại) Methamphetamine; các hạt tinh thể không màu đựng bên trong 01 (một) gói nilon kích thước (3 x 1,2)cm (ký hiệu A2) gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1026 gam là (loại) Methamphetamine.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 (một) gói nilon hàn kín, kích thước (2,5 x 1,2)cm bên trong có chứa các hạt tinh thể không màu; 01 (một) gói nilon hàn kín, kích thước (03 x 1,2)cm bên trong có chứa các hạt tinh thể không màu;

01 (một) nắm chai nhựa có gắn nỏ thủy tinh và ống hút dùng để sử dụng ma túy; 01 (một) ống hút nhựa được cắt nhọn một đầu kích thước (4,5)cm; 01 (một) gói nilon kích thước (09 x 06)cm.

Tại bản cáo trạng số 06/CT-VKS ngày 07/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định truy tố bị cáo Huỳnh Đức T ra trước Tòa án nhân dân huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định giữ nguyên quyết định truy tố, nêu luận tội và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt Huỳnh Đức T từ 18 (mười tám) đến 24 (hai mươi bốn) tháng tù.

- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Huỳnh Đức T không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo T.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng các điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015;

Tịch thu và tiêu huỷ: 01 (một) Bao thư niêm phong số 337/PC09, có ba con dấu của Phòng kỷ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Định, bên ngoài có ghi: Hoàn lại đối tượng giám định gồm: Vỏ, bao bì đựng mẫu vật còn lại sau giám định 0,0304 gam mẫu A1 và 0,0412 gam mẫu A2 còn lại sau giám định;

01 (một) nắp chai nhựa có gắn nỏ thủy tinh và ống hút dùng để sử dụng ma túy; 01 (một) ống hút nhựa được cắt nhọn một đầu kích thước (4,5)cm; 01 (một) gói nilon kích thước (09 x 06)cm.

Đối với đối tượng tên K bán ma tuý cho T, Cơ quan CSĐT Công an huyện Phù Mỹ đã xác minh nhưng không xác định được lai lịch của đối tượng này nên không có căn cứ xử lý.

Tại phiên tòa bị cáo Huỳnh Đức T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên; không có ý kiến tranh luận với Kiểm sát viên và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Phù Mỹ, Điều tra viên, Cán bộ điều tra; Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Mỹ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai báo thành khẩn và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Đối chiếu lời khai nhận của bị cáo tại phiên toà hôm nay cùng các chứng cứ thể hiện tại hồ sơ với Cáo trạng của Viện kiểm sát là hoàn toàn phù hợp, Hội đồng xét xử sơ thẩm có đủ căn cứ kết luận:

Vào ngày 06/11/2021, Huỳnh Đức T gọi điện thoại cho một người tên K ở TP. Hồ Chí Minh nhờ mua ma túy đá với số tiền 1.000.000 đồng để về sử dụng cá nhân. K đồng ý và thỏa thuận sẽ gởi ma túy về bằng đường xe khách Bắc-Nam, còn T chuyển tiền qua ứng dụng “MOMO”. Đến đêm ngày 07/11/2021, xe khách (không rõ biển số) đến khu vực ĐN, MP gọi T ra để lấy hàng là một vỏ hộp điện thoại. Sau khi lấy hàng, T mở ra kiểm tra thì bên trong có bốn gói ma túy đá và một cái nỏ thủy tinh dùng để sử dụng ma túy. T cầm ma túy về nhà và một mình sử dụng hết một gói ma túy, số ma túy còn lại T cất giữ trong ba lô. Đến ngày 11/11/2021, tại nhà T tiếp tục lấy một gói ma túy ra sử dụng hết, hai gói ma túy còn lại T cất trong ba lô để ở phòng ngủ. Đến khoảng 17 giờ ngày 13/11/2021, do T có nhiều biểu hiện bất thường nên gia đình nghi ngờ T sử dụng chất ma túy và báo cáo Công an xã Mỹ Phong đến kiểm tra, phát hiện và lập biên bản phạm tội quả tang.

Tại kết luận giám định số 337/PC09 ngày 16/11/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Định kết luận: Các hạt tinh thể không màu đựng bên trong 01 (một) gói nilon kích thước (2,5 x 1,2)cm (ký hiệu A1) gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,0971 gam là (loại) Methamphetamine; các hạt tinh thể không màu đựng bên trong 01 (một) gói nilon kích thước (3 x 1,2)cm (ký hiệu A2) gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1026 gam là (loại) Methamphetamine.

Hành vi nêu trên của bị cáo Huỳnh Đức T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định truy tố bị cáo Huỳnh Đức T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó không những đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý mà còn làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự an toàn xã hội ở địa phương, gây ra các tệ nạn xã hội. Xét cần thiết phải lên một mức án thật nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, nên cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhất định để bị cáo có đủ thời gian cải tạo, giáo dục trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội; đồng thời có tính răn đe, phòng ngừa chung cho những kẻ có hành vi tương tự.

[4] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình bị cáo phát hiện hành vi phạm tội của bị cáo đã tố giác với cơ quan Công an. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Về hình phạt bổ sung: Đối với bị cáo Huỳnh Đức T do không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử xét không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phù hợp.

[6] Vật chứng của vụ án:

01 (một) Bao thư niêm phong số 337/PC09, có ba con dấu của Phòng kỷ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Định, bên ngoài có ghi: Hoàn lại đối tượng giám định gồm: Vỏ, bao bì đựng mẫu vật còn lại sau giám định 0,0304 gam mẫu A1 và 0,0412 gam mẫu A2 còn lại sau giám định; 01 (một) nắp chai nhựa có gắn nỏ thủy tinh và ống hút dùng để sử dụng ma túy; 01 (một) ống hút nhựa được cắt nhọn một đầu kích thước (4,5)cm; 01 (một) gói nilon kích thước (09 x 06)cm. Đây là những vật Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành và vật không có giá trị nên tịch thu, tiêu huỷ theo điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[7] Đối với đối tượng tên K bán ma tuý cho T, Cơ quan CSĐT Công an huyện Phù Mỹ đã xác minh nhưng không xác định được nhân thân, lai lịch của đối tượng này nên không có căn cứ xử lý.

[8] Về Luận tội và đề nghị áp dụng hình phạt của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[9] Về án phí: Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội. Buộc bị cáo Huỳnh Đức T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Huỳnh Đức T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” 1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Đức T 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam trước (ngày 13/11/2021).

2. Về các biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu huỷ: 01 (một) Bao thư niêm phong số 337/PC09, có ba con dấu của Phòng kỷ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Định, bên ngoài có ghi: Hoàn lại đối tượng giám định gồm: Vỏ, bao bì đựng mẫu vật còn lại sau giám định 0,0304 gam mẫu A1 và 0,0412 gam mẫu A2 còn lại sau giám định; 01 (một) nắp chai nhựa có gắn nỏ thủy tinh và ống hút dùng để sử dụng ma túy;

01 (một) ống hút nhựa được cắt nhọn một đầu kích thước (4,5)cm; 01 (một) gói nilon kích thước (09 x 06)cm.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/12/2021, giữa Công an huyện Phù Mỹ với Chi cục thi hành án dân sự huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Huỳnh Đức T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

436
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 13/2022/HS-ST

Số hiệu:13/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phù Mỹ - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về