TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒA AN, TỈNH CAO BẰNG
BẢN ÁN 13/2022/HS-ST NGÀY 28/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng đã tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 06/2022/TLST-HS ngày 11 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2022/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:
Lô Văn T; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 16 tháng 11 năm 1984 tại xã H, thành phố C, tỉnh Cao Bằng; Nơi cư trú: Xóm Đ, xã H, thành phố C, tỉnh Cao Bằng. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lục Xuân D (Đã chết) và bà Lô Thị N (Đã chết); Có vợ Hoàng Thị L và có 01 con; Tiền sự: Không;
Tiền án: Có 01 tiền án Ngày 09/7/2019 bị Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 16 tháng tù tại Bản án số: 151/2019/HS-ST về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo đã chấp hành xong án phạt tù vào ngày 08/5/2020, nhưng chưa được xóa án tích; Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 29/12/2021; Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Lục Thị T1; sinh năm 1976; Nơi cư trú: Xóm Đ, xã H, thành phố C, tỉnh Cao Bằng. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào hồi 12 giờ 25 phút ngày 29/12/2021, Tổ công tác của Đội cảnh sát phòng chống tội phạm về kinh tế - ma túy Công an huyện Hòa An làm nhiệm vụ tại xóm 9, B, thị trấn N, huyện H, tỉnh Cao Bằng thì phát hiện bị cáo Lô Văn T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 11AA-006.98 có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Kết quả phát hiện trong túi áo khoác bên trái của bị cáo đang mặc có 01 (Một) gói nhỏ được gói bằng giấy màu vàng, bên trong có chứa chất bột màu trắng theo lời khai của bị cáo đó là Heroine. Tổ công tác đã lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong tang vật đồng thời tạm giữ xe mô tô, điện thoại di dộng của bị cáo để phục vụ công tác điều tra.
Tại Cơ quan điều tra, bị cáo khai nhận: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 29/12/2021, bị cáo dùng điện thoại di động cá nhân có số thuê bao 0347.892.870 gọi cho một người đàn ông tên là Q có số thuê bao 0387.523.229 để nhờ mua ma túy giúp và được Q đồng ý. Hai người hẹn gặp nhau tại khu vực thị trấn N, huyện H, tỉnh Cao Bằng để giao nhận tiền và ma túy. Sau đó, bị cáo đi xe mô tô từ nhà của mình ở xóm Đ, xã H, thành phố C, tỉnh Cao Bằng lên thị trấn N đến đoạn cầu K thì gặp và đưa cho Q 100.000 đồng (Một trăm nghìn đồng) rồi đi vào đoạn đường vắng gần đó ngồi đợi. Q cầm tiền đi lên hướng thị trấn N được khoảng 15 phút thì quay lại cho bị cáo 01 (Một) gói nhỏ Heroine rồi lái xe đi luôn. Bị cáo cầm gói ma túy cất vào túi áo rồi điều khiển xe quay về nhà nhưng mới đến đoạn đường ngay gần Trạm y tế thị trấn N thì bị Cơ quan Công an phát hiện, bắt quả tang.
Ngày 29/12/2021, Cơ quan điều tra Công an huyện Hòa An đã tiến hành cân xác định trọng lượng tang vật là lượng ma túy thu giữ trên người bị cáo với khối lượng tịnh là 0,1926 gam (Không phẩy một chín hai sáu gam).
Tại Kết luận giám định số 29/GĐMT ngày 07/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cao Bằng kết luận: Mẫu chất bột màu trắng bên trong phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Heroine.
Tại bản cáo trạng số 08/CT-VKSHA ngày 11/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoà An, Cao Bằng đã truy tố bị cáo Lô Văn T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như Bản cáo trạng truy tố, bị cáo không có ý kiến gì. Bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lục Thị T1 thừa nhận chiếc xe mô tô biển kiểm soát 11AA-006.98 là của bản thân mua năm 2016 tại Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu Cao Bằng để cho mẹ đẻ là bà Lô Thị N đứng tên trên giấy tờ đăng ký xe. Sau khi bị cáo thụ án xong trở về địa phương sinh sống không có phương tiện đi lại nên đã cho bị cáo mượn làm phương tiện đi lại hàng ngày. Việc bị cáo sử dụng xe để đi mua ma túy bà không biết. Nay bà đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn trả lại chiếc xe để có phương tiện đi lại hằng ngày.
Tại phiên toà, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định của Bản cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 30 (Ba mươi) đến 36 (Ba mươi sáu) tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
Về việc xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại là vật chứng của vụ án; Tịch thu, phát mại sung ngân sách Nhà nước 01 (Một) điện thoại di động của bị cáo do có liên quan đến hành vi phạm tội; hoàn trả cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lục Thị T1 01 (Một) xe mô tô là vật chứng của vụ án. Ngoài ra, Kiểm sát viên còn đề nghị buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật và không áp dụng hình phạt bổ sung với bị cáo.
Tại phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến tranh luận với bản luận tội của Kiểm sát viên về tội danh cũng như mức hình phạt; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà T1 không có ý kiến gì thêm. Khi nói lời sau cùng, bị cáo mong Hội đồng xét xử cân nhắc, xem xét cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất để sớm được trở về với gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hòa An, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, các yếu tố cấu thành tội phạm:
Tại phiên tòa bị cáo nhận tội, lời khai của bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, xác định: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 29/12/2021, bị cáo mua ma túy với một người đàn ông tên là Q (Không rõ họ, tuổi, địa chỉ) hết số tiền 100.000 đồng (Một trăm nghìn đồng) để sử dụng cho bản thân. Nhưng sau khi nhận ma túy chưa kịp sử dụng đã bị Cơ quan điều tra phát hiện, thu giữ. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai nhận mục đích mua ma túy về chỉ để sử dụng cho bản thân, không nhằm mục đích khác. Lượng ma túy thu giữ trên người bị cáo có khối lượng tịnh là 0,1926 gam (Không phẩy một chín hai sáu gam) nên bị cáo phạm tội thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Với những căn cứ trên, Hội đồng xét xử khẳng định bị cáo Lô Văn T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Heroine là một dạng ma túy độc dược gây nghiện Nhà nước độc quyền quản lý và nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán, chiếm đoạt và sử dụng trái phép. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật hình sự, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội với mục đích phục vụ nhu cầu sử dụng cá nhân. Bị cáo có nhân thân xấu, có 01 (Một) tiền án, chưa được xóa án tích. Do đó, Hội đồng xét xử nhận thấy cần thiết áp dụng hình phạt nghiêm khắc là phạt tù có thời hạn đối với bị cáo để cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm giáo dục, cải tạo riêng với bị cáo và phòng ngừa chung.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Tình tiết tăng nặng: Do bị cáo đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên thuộc trường hợp tái phạm. Do đó bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
- Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội, thể hiện sự ăn năn hối cải của bản thân. Do đó, bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[4] Mức hình phạt Kiểm sát viên đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và đặc điểm nhân thân của bị cáo nên được chấp nhận.
Ngoài hình phạt chính, tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự còn quy định hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với người phạm tội danh này. Xét thấy bị cáo nghề nghiệp lao động tự do, không có thu nhập ổn định nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5] Đối với người đàn ông tên Q sử dụng số thuê bao 0387.523.229 (Không rõ họ, tuổi, địa chỉ) bán ma túy cho bị cáo, Cơ quan điều tra không đủ căn cứ để xử lý trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề ra xem xét.
[6] Về xử lý vật chứng vụ án:
- Đối với số heroine còn lại là vật chứng của vụ án; đây là loại ma túy mà Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy;
- Đối với 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu MOBIISTAR là phương tiện phạm tội của bị cáo, được bị cáo sử dụng để liên lạc mua ma túy nên cần tịch thu, phát mại sung vào ngân sách Nhà nước.
- Đối với 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu DETECH màu xanh, biển kiểm soát 11AA-006.98. Kết quả xác minh cho thấy đây là xe của bà Lục Thị T1 cho bị cáo mượn sử dụng làm phương tiện đi lại hàng ngày. Việc bị cáo sử dụng xe để đi mua ma túy bà không biết nên cần hoàn trả cho chủ sở hữu là bà T1 là phù hợp với quy định của pháp luật.
[7] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
[8] Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lô Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Về điều luật áp dụng và hình phạt đối với bị cáo:
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.
Xử phạt bị cáo Lô Văn T 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày bị cáo bị bắt giữ 29/12/2021.
3. Về xử lý vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự
- Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) phong bì niêm phong theo quy định, mặt trước phong bì ghi “Vật chứng vụ án Lô Văn T, SN: 1984; HKTT: Xóm Đ, xã H, thành phố C, tỉnh Cao Bằng. Hành vi: Tàng trữ trái phép chất ma túy bị bắt quả tang ngày 29/12/2021", mặt sau có chữ ký của đối tượng và các thành phần tham gia niêm phong;
- Tịch thu, phát mại sung ngân sách Nhà nước 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu MOBIISTAR, màu đen (loại bàn phím), có số IMEI: 352310021421414, gắn số thuê bao 0347.892.870, điện thoại đã qua sử dụng;
- Trả lại cho bà Lục Thị T1; sinh năm 1976; trú tại: Xóm Đ, xã H, thành phố C, tỉnh Cao Bằng 01 (Một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu DETECH màu xanh, biển kiểm soát 11AA-006.98, số khung: RPECCBIUMGA019656, số máy: VDEJQ139FMB019656, xe đã qua sử dụng.
Vật chứng của vụ án đang được quản lý tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Hòa An, Cao Bằng theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/3/2022.
4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Lô Văn T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước.
5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15, kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 13/2022/HS-ST
Số hiệu: | 13/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hoà An - Cao Bằng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/04/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về