TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG LÁT, TỈNH THANH HOÁ
BẢN ÁN 13/2020/HS-ST NGÀY 23/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 23/7/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hoá, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 13/2020/TLST-HS ngày 09/6/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2020/QĐXXST-HS ngày 10/7/2020 đối với bị cáo:
Sung Văn C; Sinh năm 1980; Dân tộc: Mông; Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: Không biết chữ. Nghề nghiệp: Trồng trọt. Nơi cư trú: Bản Kéo Té, xã S, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa.
Bố: Sung Văn V, sinh năm 1928; Mẹ: Thao Thị M (đã chết). Vợ: Thao Thị M (đã chết). Có 03 người con, lớn nhất sinh năm 1996, nhỏ nhất sinh năm 2005. Hiện bố và con út của bị cáo đang sinh sống tại xã S; Con thứ 2 sinh sống tại xã Mường Lý, Con thứ 3 sinh sống tại xã Q, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa.
Tiền án; Tiền sự: Không. Bị tạm giữ ngày 06/3/2020, chuyển tạm giam ngày 11/3/2020 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa đến nay, có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo: Ông Hà Văn K - Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm trợ giúp pháp lý số 1, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Thanh Hóa. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 03/3/2020, bị cáo đi bộ theo đường mòn từ bản Chim, xã S, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa sang bản Khằm Nàng (Lào) để xin quả Thuốc phiện làm thuốc chữa bệnh. Tại bản Khằm Nàng (Lào), bị cáo ăn nghỉ tại nhà của Hơ Văn D và Thao Thị C. Ngày 05/3/2020, bị cáo đến nhà Hơ Văn T để xin quả Thuốc phiện, sau đó T đi hái quả Thuốc phiện rồi bỏ vào trong một chiếc túi vải màu nâu đen đưa lại cho bị cáo. Đến ngày 06/3/2020, bị cáo mang theo một túi nilon đựng rau cải, quần áo và một túi vải màu nâu đen đựng quả Thuốc phiện rồi đi theo đường cũ trở về Việt Nam. Trên đường quốc lộ 15C thuộc bản Cặt, xã S, huyện Mường Lát thì bị lực lượng Công an huyện Mường Lát phối hợp với lực lượng Đồn Biên phòng Pù Nhi - BĐBP tỉnh Thanh Hóa tiến hành kiểm tra phát hiện và thu giữ toàn bộ số quả Thuốc phiện bị cáo đang mang theo.
Tại bản kết luận giám định số 944/PC09 ngày 10/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, vật chứng thu giữ của bị cáo như sau:
Các quả hình bầu dục màu xanh, kích thước to, nhỏ khác nhau của thùng xốp hình hộp chữ nhật niêm phong gửi giám định là quả Thuốc phiện, có tổng khối lượng 5,2 kg (năm phẩy hai kilogam).
Quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Bản cáo trạng số 13/CT-VKS-MT ngày 08/6/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Lát truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại Điểm đ khoản 1 Điều 248 Bộ luật hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tranh luận và luận tội: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, thái độ ăn năn hối cải và công nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
Về tội danh: Tuyên bố: bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy Về điều luật: Áp dụng: Điều 260 BLTTHS; Điều 38; điểm s khoản 1 điều 51;
khoản 1 Điều 55 Điểm đ khoản 2 điều 249 BLHS;
Về hình phạt:
Hình phạt chính: Bị cáo từ 13 đến 15 tháng tù.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ.
Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, vì bị cáo làm nghề trồng trọt, thu nhập thấp, kinh tế khó khăn, nên không có tính khả thi.
Về vật chứng: Xử lý theo quy định của pháp luật.
Về án phí: Bị cáo được miễn án phí HSST theo quy định của pháp luật.
Bị cáo xác nhận trong quá trình điều tra, truy tố không bị Cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng biện pháp ép cung, bức cung hay nhục hình, bị cáo khai, biết rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật và bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng do nghiện chất ma túy, không kìm chế được bản thân nên đã cố tình vi phạm pháp luật. Bị cáo công nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng đã nêu là đúng, bị cáo không khai báo thêm tình tiết mới.
Ý kiến người bào chữa: Người bào chữa đồng tình với quan điểm truy tố của VKS về tội danh, điều luật áp dụng và khung hình phạt, các tình tiết giảm nhẹ TNHS cho bị cáo. Người bào chữa cho rằng: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có điều kiện Kinh tế - Xã hội đặc biệt khó khăn, nhận thức xã hội cũng như nhận thức về pháp luật còn kém nên đã phạm tội, đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất của khung hình phạt, không phạt bổ sung là hình phạt tiền, tạo điều kiện để bị cáo yên tâm cải tạo, sớm được trở về với gia đình và xã hội, bản thân trở thành công dân có ích.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận tội, đồng tình với lời bào chữa, không thay đổi, bổ sung thêm gì làm thay đổi nội dung vụ án, không có ý kiến tranh luận với đại diện VKS, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét mức án thấp nhất của khung hình phạt, để bị cáo sớm được về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mường Lát, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Lát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố; Tòa án nhân dân huyện Mường Lát, Thẩm phán, Thư ký đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Trợ giúp viên pháp lý là người bào chữa cho bị cáo và bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Chứng cứ xác định có tội, không có tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Xét lời khai nhận tội của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người chứng kiến, kết luận giám định và chứng cứ khác trong hồ sơ, đủ cơ sở khẳng định bị cáo vượt biên giới trái phép sang Bản Khằm Nàng - Lào xin quả thuốc phiện về tàng trữ làm thuốc chữa bệnh đã cấu thành tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại Bộ luật hình sự Nước CHXHCNVN. Hành vi của bị cáo xâm phạm chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà Nước, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện.
Với tính chất vụ án, hành vi, năng lực chịu trách nhiệm hình sự của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Lát truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Tại các cơ quan tố tụng cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, thái độ ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS tại điểm s khoản 1 điều 51 BLHS.
Với các tình tiết này HĐXX xem xét xử bị cáo mức án tương xứng với hành vi phạm tội, thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật.
[4] Xét về hình phạt: Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa về mức hình phạt là phù hợp với hành vi phạm tội và khối lượng chất ma túy thu giữ, đã đủ sức răn đe, phòng ngừa chung.
Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa, cho thấy bị cáo làm nghề trồng trọt, thu nhập thấp và không ổn định. HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Xét về vật chứng trong vụ án:
- Tại phiên tòa bị cáo khai bị thu giữ túi vải màu nâu đen. Túi đã sử dụng lâu rồi, đã cũ và không còn sử dụng được nên tịch thu để tiêu hủy.
- Một thùng xốp hình hộp chữ nhật bên trong là mẫu vật còn lại sau giám định được dán kín niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành. Cần tịch thu, tiêu hủy.
Tang vật của vụ án hiện đang được bảo quản tại kho tang vật Chi cục THADS huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa.
[6] Xét về phần án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống trong vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nên được miễn án phí HSST và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
[7] Các nhận định khác:
Đối với Hơ Văn Tngười đã cho bị cáo quả thuốc phiện. Theo lời khai của bị cáo thì T là công dân nước CHDCND Lào. Việc xin, cho Quả thuốc phiện diễn ra ngoài lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam. Vì vậy Cơ quan CSĐT Công an huyện Mường Lát không đủ điều kiện để tiến hành xác minh làm rõ.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên:
Bị cáo Sung Văn C phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”
Áp dụng:
Điều 260 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm đ khoản 1 điều 249; Điều 38; Điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.
Xử phạt: Hình phạt chính: 13 (Mười ba) tháng tù.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo tính từ ngày tạm giữ (06/3/2020). Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về tang vật: Áp dụng điểm c khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy:
- Một thùng xốp hình hộp chữ nhật của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa bên trong là mẫu vật còn lại sau giám định vụ Sung Văn C, được dán kín niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên của Nguyễn Trần Đ, Lê Anh T cùng các hình dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa.
- Một túi vải màu nâu đen đã qua sử dụng.
Vật chứng kể trên đang lưu giữ, bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa, theo Quyết định chuyển vật chứng số 09/QĐ-VKS-ML, ngày 08/6/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Lát và Biên bản giao nhận vật chứng số 22/TV-CCTHADS ngày 08/6/2020 giữa Công an huyện Mường Lát và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường Lát.
Về án phí: Áp dụng điều 135, điều 136 BLTTHS; Điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;
Tuyên: Miễn tiền án phí HSST cho bị cáo .
Quyền kháng cáo, kháng nghị: Căn cứ điều 331, điều 333 và điều 337 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Án xử công khai; có mặt bị cáo; người bào chữa cho bị cáo; bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 13/2020/HS-ST
Số hiệu: | 13/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mường Lát - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/07/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về