Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 13/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 13/2020/HS-ST NGÀY 17/03/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 3 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 11/2020/TLST-HS ngày 25 tháng 02 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2020/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 3 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Tô Hồng K, sinh năm 1996, tại tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Công nhân; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp S, xã C, huyện T, tỉnh An Giang. Tạm trú: Ấp 2, xã V(nay là phường V), thị xã T, tỉnh Bình Dương; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Hòa hảo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tô Hồng M, sinh năm 1975 và bà Lý Thị V, sinh năm 1975; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án: Không, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 14/11/2019 đến ngày 24/11/2019 chuyển sang tạm giam cho đến nay. Bị cáo có mặt.

2. Dương H, sinh năm: 1996, tại tỉnh Sóc Trăng, nghề nghiệp: Công nhân; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp X, xã H, huyện C, tỉnh Sóc Trăng. Tạm trú: Ấp 2, xã V (nay là phường V), thị xã T, tỉnh Bình Dương; trình độ học vấn: 02/12; dân tộc: Khơ - me; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Dương P, sinh năm 1959 và bà Kim Thị H, sinh năm 1965; Bị cáo có vợ tên Phạm Thị Mai N; có 02 con sinh năm 2015 và năm 2018; có 04 anh em ruột, lớn nhất sinh năm 1982, nhỏ nhất sinh năm 1999; Tiền án: Không, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 14/11/2019 đến ngày 24/11/2019 chuyển sang tạm giam cho đến nay. Bị cáo có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Anh Vương Nhật H, sinh năm: 1999, nơi cư trú: Ấp 2, xã V (nay là phường V), thị xã T, tỉnh Bình Dương; Vắng mặt có đơn xin vắng mặt.

+ Bà Lý Thị Thu V, sinh năm: 1975, nơi cư trú: Ấp 2, xã V (nay là phường V), thị xã T, tỉnh Bình Dương; Vắng mặt có đơn xin vắng mặt.

- Người làm chứng:

+ Anh Đinh Hoàng T; vắng mặt có đơn xin vắng mặt.

+ Anh Ngô Tấn T; vắng mặt có đơn xin vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tô Hồng K và Dương H là bạn cùng tạm trú tại Ấp 2, xã V (nay là phường V), thị xã T, tỉnh Bình Dương. K và H đã nhiều lần sử dụng ma túy chung với nhau. K có quen biết và nhiều lần sử dụng ma túy chung với người thanh niên tên Y (không rõ nhân thân lai lịch) ở khu vực huyện H, tỉnh Bình Phước. Khoảng 18 giờ 00 ngày 14/11/2019, K rủ H đi đến nhà người dì của K tại xã T, huyện C, tỉnh Bình Phước chơi thì H đồng ý. K điều khiển xe môtô biển số 83P3-216.xx chở H đi Bình Phước nhưng không gặp được người thân ở nhà, K rủ H đến quán giải khát (không rõ tên, địa chỉ) thuộc huyện C, tỉnh Bình Phước, K kêu H uống nước ngồi chờ K đi công việc, K điều khiển mô tô biển số 83P3-216.xx đi đến khu vực huyện H gần thị xã B, tỉnh Bình Phước để gặp Y. Khi gặp nhau, K đưa cho Y 300.000 đồng nhờ mua hộ ma túy đá, Y đồng ý và Y gọi điện thoại cho ai đó, rồi chạy đi khoảng 05 phút sau thì quay lại đưa cho K 01 túi nylon chứa chất tinh thể màu trắng dán băng keo màu đen ở bên ngoài và 01 cái nỏ bằng thủy tinh (dụng cụ sử dụng ma túy). K cất túi nylon và cái nỏ bằng thủy tinh vào bao thuốc lá hiệu Hòa Bình rồi quay về chỗ H đang chờ. Tại quán nước, K đưa cho H xem bao thuốc lá hiệu Hòa Bình và nói rõ với H bên trong bao thuốc lá có ma túy đá, K kêu H cầm bao thuốc lá trên tay, ngồi phía sau xe mô tô để K chở về nhà trọ tại xã V, thị xã T, nếu trên đường đi gặp lực lượng kiểm tra thì ném bao thuốc lá đi, H đồng ý. Sau đó, K điều khiển xe môtô biển số 83P3-216.xx chở H quay về nơi ở trọ. Khi đi đến khu vực vòng xoay C thuộc ấp C, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương thì K bị lực lượng tuần tra Công an xã T ra tín hiệu dừng xe để kiểm tra, H liền ném gói thuốc lá hiệu Hòa Bình xuống đường nhưng bị lực lượng Công an phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và đưa về trụ sở làm việc.

Tang vật, tài sản thu giữ tại hiện trường gồm: 01 bao thuốc lá nhãn hiệu “Hòa Bình” bên trong có 01 túi nylon hàn kín dán băng keo đen bên trong chứa chất tinh thể màu trắng và 01 ống thủy tinh đã bị bể; 01 xe môtô biển số 83P3-216.xx số khung: RLCUG0610HY499744, số máy: G3D4E522015; 01 giấy chứng minh nhân dân tên Tô Hồng K; 01 giấy chứng minh nhân dân tên Dương H.

Tại bản Kết luận giám định số 848/MT-PC09 ngày 19/11/2019 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận chất tinh thể màu trắng trong 01 túi nylon hàn kín thu giữ của Tô Hồng K và Dương H là ma túy, loại Methamphetamine có trọng lượng 1,1513 gam.

Tại Cáo trạng số 15/CT-VKSBTU ngày 25 tháng 02 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên truy tố bị cáo Tô Hồng K và Dương H về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Tô Hồng K mức án từ 18 đến 24 tháng tù.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Dương H mức án từ 18 đến 24 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Điều 47 Bộ luật Hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy đối với 01 bì thư đã được Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương niêm phong ghi số 848/PC09 bên trong chứa chất ma túy, loại Methamphetamine có trọng lượng 1,0991 gam (trọng lượng sau giám định); 01 cái nỏ bằng thủy tinh đã bị bể và 01 vỏ bao thuốc lá hiệu “Hòa Bình” đã qua sử dụng.

Tại phiên tòa, bị cáo K và bị cáo H đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố. Qua tranh luận, cả hai bị cáo K và H thống nhất về tội danh “Tàng trữ trái phép các chất ma túy” do đại diện Viện Kiểm sát kết tội là đúng với hành vi phạm tội các bị cáo đã thực hiện; Mức hình phạt mà đại diện Viện Kiểm sát đã đề nghị áp dụng đối với từng bị cáo là đúng người, đúng tội, các bị cáo không có ý kiến tranh luận về việc xử lý vật chứng như đại diện Viện Kiểm sát đề nghị tại phiên tòa. Các bị cáo không tranh luận gì khác.

Trong lời nói sau cùng cả bị cáo K và bị cáo H đều xin Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được hưởng mức hình phạt nhẹ nhất để có cơ hội trở về gia đình, ổn định cuộc sống.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau :

[1] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan trong vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về việc vắng mặt của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng: Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Vương Nhật H và bà Lý Thị Thu V; người làm chứng ông Đinh Hoàng T và ông Ngô Tấn T đã được triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt. Xét thấy, trong giai đoạn điều tra đã cung cấp lời khai rõ ràng và có đơn xin vắng mặt nên việc vắng mặt của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng nêu trên không ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ án, căn cứ Điều 292 và Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự nên Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt họ.

[3] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Căn cứ kết quả điều tra vụ án, lời trình bày của các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa cùng các chứng khác đã thu thập được tại hồ sơ vụ án có căn cứ xác định vào ngày 14/11/2019, bị cáo Tô Hồng K và bị cáo Dương H đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là Methamphetamine, trọng lượng 1,1513 gam, đã bị lực lượng tuần tra Công an xã T, huyện B phát hiện bắt giữ tại khu vực Vòng xoay C, thuộc xã T, huyện B. Quá trình điều tra thể hiện, K là người chủ động rủ rê H đi Bình Phước nhằm mục đích mua ma túy về nhà sử dụng, K cũng là người trực tiếp liên hệ với người thanh niên tên Y (không rõ nhân thân lai lịch) để mua ma túy. Riêng H trình bày trước đây có sử dụng ma túy với K từ 2 đến 3 lần ở khu vực ở trọ, khi H được K rủ đi Bình Phước đến nhà dì của K chơi thì H đồng ý nhưng ngay từ đầu H không biết ý định của K là đi Bình Phước để mua ma túy. Khi ngồi đợi tại quán nước, sau đó K quay lại nói rõ là trong bao thuốc lá hiệu “Hòa Bình” có ma túy đá, K mua về để sử dụng chung với H, H không có phản ứng gì nhưng đồng ý theo lời đề nghị của K giao cho H cầm trên tay bao thuốc lá có chứa ma túy (tàng trữ) khi gặp lực lượng Công an thì ném đi. Do vậy, trong vụ án này cả K và H thực hiện hành vi phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” với vai trò đồng phạm, trong đó bị cáo Tô Hồng K giữ vai trò là kẻ chủ mưu, cầm đầu, trực tiếp mua ma túy và giao lại cho H tàng trữ, H là người bị rủ rê nhưng giữ vai trò giúp sức tích cực cho K và là người trực tiếp tàng trữ ma túy khi bị phát hiện.

Việc tàng trữ 1,1513 gam ma túy loại Methamphetamine (ma túy đá) của Tô Hồng K và Dương H theo Bản kết luận giám định số 848/MT-PC09 ngày 19/11/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do vậy, Cáo trạng số 15/CT-VKS ngày 25/02/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên truy tố bị cáo Tô Hồng K và Dương H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý các chất gây nghiện của Nhà nước. Về nhận thức, các bị cáo biết ma túy (Methamphetamine) là chất gây nghiện nguy hiểm do Nhà nước độc quyền và thống nhất quản lý, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo K và bị cáo H không chỉ gây khó khăn cho việc kiểm soát các chất ma túy của Nhà nước mà còn đe dọa nghiêm trọng đến an toàn trật tự công cộng, sức khỏe và sự phát triển lành mạnh của xã hội, là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm hình sự khác. Các bị cáo là nạn nhân của ma túy, nhận thức được tác hại của ma túy nhưng vì mong muốn có ma túy để sử dụng nhằm thỏa mãn cơn nghiện mà các bị cáo đã bất chấp pháp luật, cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy, cần có mức án nghiêm tương xứng với tính chất với hành vi phạm tội của từng bị cáo, cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe giáo dục các bị cáo và nhằm phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

[4] Về quyết định hình phạt, xem xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với từng bị cáo trong vụ án:

Như đã phân tích tại phần [3], các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với vai trò đồng phạm giản đơn, trong đó bị cáo Tô Hồng K là người chủ mưu, cầm đầu, xúi giục người khác phạm tội còn bị cáo Dương H có vai trò giúp sức cho bị cáo H trong việc trực tiếp tàng trữ 1,1513 gam ma túy, loại Methamphetamine. Do đó, cần áp dụng mức hình phạt thật nghiêm khắc đối với cả hai bị cáo nhằm tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà mỗi bị cáo đã gây ra, nhưng mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo K phải cao hơn mức hình phạt cần áp dụng đối với bị cáo H.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, cả hai bị cáo K và H đều có thái độ thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn, hối cải hành vi đã gây ra nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với cả hai bị cáo.

[5] Đối chiếu với các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; tính chất mức độ thực hiện tội phạm cũng như nhân thân của từng bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với từng bị cáo là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Đối với người thanh niên tên Y không xác định được nhân thân lai lịch, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên sẽ tiếp tục điều tra và xử lý sau là đúng quy định.

[7] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

- Xe mô tô biển số 83P3-216.xx, số khung: RLCUG0610HY499744, số máy: G3D4E522015 do bà Lý Thị Thu V đứng tên chủ sở hữu. Ngày 14/11/2019, K hỏi mượn anh Vương Nhựt H (là con ruột bà V) xe môtô trên để đi công việc rồi sử dụng đi mua ma túy thì bà V và anh H không biết. Ngày 13/01/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 03 trả lại xe môtô trên cho chủ sở hữu là bà Lý Thị Thu V là đúng quy định tại điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự và khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự nên Hội đồng xét xử không xem xét lại.

- Đối với 02 giấy chứng minh nhân dân mang tên Tô Hồng K và tên Dương H, do là giấy tờ tùy thân của các bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội. Ngày 21/02/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên đã ra Quyết định trả lại tài sản số 06 trả lại cho bị can Tô Hồng K và Dương H là đúng quy định.

- 01 bì thư đã được Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương niêm phong ghi số 848/PC09 bên trong chứa chất ma túy, loại Methamphetamine có trọng lượng 1,0991 gam (trọng lượng sau giám định) đây là chất cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 cái nỏ bằng thủy tinh bị bể (do bị cáo H ném xuống đường khi bị lưc lượng tuần tra dừng phương tiện để kiểm tra) và 01 vỏ bao thuốc lá hiệu “Hòa Bình” đã qua sử dụng. Đây là dụng cụ dùng để sử dụng ma túy nên cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng: Điều 17, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 và điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

- Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136, khoản 1, 4 Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án.

1. Tuyên bố: Các bị cáo Tô Hồng K và Dương H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

- Xử phạt bị cáo Tô Hồng K 20 (Hai mươi) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14/11/2019.

- Xử phạt bị cáo Dương H 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14/11/2019.

3. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư đã được dán kín ký hiệu 848/PC09 bên trong chứa chất ma túy (Methamphetamine), trọng lượng 1,0991 gam (trọng lượng sau giám định), 01 cái nỏ bằng thủy tinh bị bể và 01 vỏ gói thuốc lá hiệu Hòa Bình đã qua sử dụng.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/02/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bắc Tân Uyên).

4. Về án phí sơ thẩm: Buộc các bị cáo Tô Hồng K và Dương H, mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo có mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

32
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 13/2020/HS-ST

Số hiệu:13/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về