Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 131/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG – THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 131/2023/HS-ST NGÀY 15/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân TP. Phan Rang – T, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 122/2023/TLST-HS ngày 18 tháng 8 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 123/2023/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo:

Đào Văn S, sinh ngày: 20/8/1998 tại Ninh Thuận; Nơi thường trú: Thôn T, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận. Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn 06/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đào L và bà Nguyễn Thị Bích N; Có vợ Lê Thị Thu H và có 01 con, sinh năm 2020.

* Tiền án, tiền sự: không.

* Nhân thân: Ngày 25/4/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Thuận Nam xử phạt 05 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Chấp hành xong hình phạt vào ngày 09/01/2017.

Bị cáo bị bắt từ ngày 02/6/2023, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an T4 - T. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 15 phút ngày 02/6/2023, Công an thành phố T4 – T phối hợp với Công an phường M tiến hành tuần tra trên địa bàn phường M. Khi lực lượng tuần tra đi đến đoạn đường D thuộc khu phố C, phường M, Tp . - T, tỉnh Ninh Thuận thì phát hiện Đào Văn S đang điều khiển xe mô tô biển số 77H4- X có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe kiểm tra. Qua kiểm tra trên người S thì phát hiện trong túi quần sau bên trái có 01 vỏ gói thuốc lá hiệu Craven, bên trong có 01 bịch nylon hàn kín các đầu chứa chất tinh thể màu trắng ký (ký hiệu M), S khai nhận là ma túy (đá) nên tổ tuần tra đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ niêm phong tang vật và mời S về trụ sở Công an làm việc.

Tại Cơ quan điều tra, Đào Văn S khai nhận: Khoảng 20 giờ ngày 02/6/2023, do có nhu cầu sử dụng ma túy (đá) nên Đào Văn S gọi điện thoại cho một người đàn ông (không rõ tên tuổi, địa chỉ cụ thể, S có số điện thoại thông qua bạn ngoài xã hội) hỏi mua 300.000 đồng ma túy (đá). Người đàn ông này đồng ý bán và hẹn S đến khu vực đường Đ, thuộc phường M, thành phố P - T để mua bán ma túy. Tại đây, S gặp một người đàn ông khoảng 30 tuổi, dáng mgười mập đang ngồi trên xe máy chờ sẵn (S không nhớ biển số, loại xe). Lúc này, S đưa cho người đàn ông 300.000 đồng rồi người đàn ông bán cho S 01 bịch ma túy (Ký hiệu M) được cất giấu trong 01 vỏ gói thuốc lá hiệu Craven. Sau khi mua được ma túy, S cất vỏ bao thuốc lá có chứa bịch ma túy (đá) vào trong túi quần sau bên trái rồi đi về. Đến khoảng 21 giờ 15 phút cùng ngày, khi S đi đến khu vực đường D thuộc khu phố C, phường M, thành phố P - T thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện S đang tàng trữ trái phép chất ma túy (đá) nên Công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, tạm giữ niêm phong tang vật và mời S về trụ sở Công an làm việc.

Tại Bản kết luận giám định chất ma túy số 131/KL-KTHS ngày 09/6/2023 của Phòng K Công an tỉnh N kết luận: Chất tinh thể màu trắng bên trong 01 bịch nylon hàn kín (ký hiệu M) gửi đến giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng của mẫu gửi giám định ký hiệu M là 0,2050 gam. (Hoàn trả đối tượng sau giám định: M: 0,1268 gam cùng với toàn bộ bao gói gửi đến giám định).

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung vụ án đã nêu. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến, hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên.

Cáo trạng số 124/CT-VKSPRTC ngày 18/8/2023 của Viện kiểm sát nhân Tp . - T truy tố bị cáo Đào Văn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tp. Phan Rang – T giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng: Tuyên bố bị cáo Đào Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Đào Văn S từ 15 tháng đến 18 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định là 0,1268 gam ma túy, loại Methamphetamine và 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Craven màu đỏ - trắng; Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Vivo màu xanh, gắn sim 0982X724; Giao Cơ quan điều tra tiếp tục tạm giữ chờ xử lý 01 xe mô tô biển số 77H4-X.

Bị cáo Đào Văn S không tranh luận.

Bị cáo Đào Văn S nói lời sau cùng: Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T4 - T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp chàm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ được thu thập trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ 15 phút ngày 02/6/2023 tại khu vực đường Đ thuộc khu phố C, phường M, Tp . - T, tỉnh Ninh Thuận lực lượng Công an đã phát hiện và bắt quả tang Đào Văn S đang thực hiện hành vi tàng trữ 0,2050 gam ma túy, loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng. Cáo trạng số 124/CT- VKSPRTC ngày 18/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân Tp. Phan Rang – T truy tố bị cáo Đào Văn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, mà còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương nên cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo: Bị cáo có nhân thân xấu; quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về xử lý vật chứng:

- Hội đồng xét xử xét thấy nên tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong bên trong chứa 0,1268 gam ma túy, loại Methamphetamine, cùng phong bì, bao gói gửi đến giám định, đây là chất cấm lưu hành, tàng trữ và 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Craven màu đỏ - trắng là vật chứng của vụ án không còn giá trị sử dụng.

- Hội đồng xét xử xét thấy nên tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu ViVo màu xanh, gắn sim số 0982X724; đây là điện thoại S dùng để liên hệ mua ma túy.

- Đối với 01 xe mô tô biển kiểm soát 77H4-X; Quá trình điều tra S khai nhận xe là do S mượn của Trần Văn T (sinh năm 2001, trú tại: Thôn T, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận) Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng hiện nay T không có mặt tại địa phương nên Cơ quan điều tra tiếp tục tạm giữ để xác minh, khi nào làm rõ sẽ đề nghị xử lý sau là phù hợp quy định pháp luật.

[5] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Đào Văn S. Quá trình điều tra chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố: Bị cáo Đào Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Đào Văn S 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 02/6/2023.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong bên trong chứa mẫu vật hoàn lại sau giám định gồm 0,1268 gam ma túy loại Methamphetamine, cùng với toàn bộ bao gói gửi đến giám định. Bên ngoài có hình dấu tròn màu đỏ của Phòng K Công an tỉnh N, có chữ ký và ghi tên Lê Ngọc T1, Phạm Văn T2, Nguyễn Lê Đức N1, Trần Huy T3. 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Craven màu đỏ - trắng.

- Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu ViVo màu xanh, gắn sim số 0982X724 đã qua sử dụng.

(Vật chứng nêu trên hiện đang được quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/8/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T4 – T và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Rang – T).

- Giao Cơ quan điều tra Công an thành phố T4 – T tiếp tục tạm giữ 01 xe mô tô biển kiểm soát 77H4-X để tiến hành điều tra, xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Đào Văn S phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai, có mặt bị cáo, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 15/9/2023)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

29
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 131/2023/HS-ST

Số hiệu:131/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về