Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 128/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 128/2022/HS-ST NGÀY 20/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 86/2022/HSST ngày 15 tháng 4 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 147/2022/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 5 năm 2022, đối với bị cáo:

Phạm T, sinh năm 1986 tại tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở trước khi bị bắt: Thôn S, phường P, thị xã K, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; họ tên cha: Không rõ, con bà Đặng T, sinh năm 1968; bị cáo là con một.

Tiện án: Ngày 28-5-2020, Tòa án nhân dân thị xã K, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp T sản” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 63/HSST.

Tiền sự: Không. Nhân thân:

- Ngày 05-9-2002, Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xử phạt 04 năm tù về tội Cướp T sản theo Bản án hình sự sơ thẩm số 152/HSST.

- Ngày 16-4-2007, Tòa án nhân dân huyện M (nay là thị xã K), tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xử phạt 01 năm 6 tháng về tội “Trộm cắp T sản” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 40/HSST.

- Ngày 26-11-2009, Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xử phạt tù 06 năm tù về tội “Cướp giật T sản” theo Bản án hình sự phúc thẩm số 143/HSPT.

Bị bắt ngày 22-12-2021, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố V (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 20 phút ngày 22 tháng 12 năm 2021, tại trước nhà đường M, Phường N, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Công an Phường N, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, kiểm tra, bắt quả tang Phạm T đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy (Heroin) để sử dụng, đồng thời thu giữ vật chứng và T sản liên quan đến vụ án (bút lục điều tra số 15).

Sau khi lập hồ sơ ban đầu, Công an Phường N, thành phố V đã chuyển hồ sơ, đối tượng cùng vật chứng và T sản đã thu giữ đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố V để điều tra theo thẩm quyền.

Quá trình điều tra, Phạm T khai nhận: T nghiện ma túy (Hêroin) được khoảng 4 năm. Ngày 22-12-2021, T và một người bạn tên H (không rõ nhân thân, lai lịch) có nhu cầu sử dụng ma túy nên cả hai đi xe máy từ TX B, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xuống Phường N, thành phố V để mua ma túy cùng nhau sử dụng. Khi đến nơi, T đưa cho H 200.000 đồng để mua ma túy, H đi vào một con hẻm mua ma túy sau đó đưa cho T. Khi T đang cất giữ ma túy trong người và đứng trước nhà số 74 Thắng Nhì, Phường N, thành phố V thì bị công an Phường N, Thành phố V bắt quả tang còn H chạy thoát (Bút lục từ số 47 đến 56).

Lời khai của Phạm T phù hợp với chứng cứ thu thập được và phù hợp với lời khai của người chứng kiến anh Nguyễn S.

Tai Kết luận giám định số 35/KLGĐ-PC09-Đ2-MT ngày 30 tháng 12 năm 2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu kết luận:

Mẫu chất bột màu trắng chứa trong 01 (một) gói nylon hàn kín, được niêm phong trong một phong bì màu trắng, có hình dấu Công an Phường N, cùng các chữ ký ghi họ tên: Trung tá Trần H, Nguyễn M, Lê T, Phạm T gửi đến giám định có tổng khối lượng là 0,2325 gam, là ma túy loại Heroine.

Việc thu giữ, tạm giữ T liệu, đồ vật và xử lý vật chứng:

* Cơ quan chức năng thu giữ vật chứng gồm:

- 01 gói nylon bên trong chứa chất bột màu trắng, qua giám định có khối lượng 0,2325 gam, là ma túy, loại Heroine.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh đen, imei 359021098694279.

Toàn bộ vật chứng và T sản trên được cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố V chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố V quản lý, chờ xử lý.

Bản cáo trạng số 100/CT-VKSTPVT ngày 14 tháng 4 năm 2022, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố V đã truy tố bị cáo Phạm T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đối với đối tượng tên H là người đi mua ma túy để sử dụng cùng Phạm T do không rõ lai lịch, cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ đủ căn cứ xử lý sau.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên nội dung đã truy tố đối với bị cáo Phạm T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 15 (mười lăm) đến 18 (mười tám) tháng tù.

Về xử lý vật chứng:

- Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong đã qua giám định là ma túy loại Heroine, khối lượng 0,2325 gam.

- Đối với 01 điện thoại Nokia màu xanh đen, imeil 359021098694279: Tại Tòa, bị cáo và chứng cứ xác định không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên đề nghị trả lại cho bị cáo.

Bị cáo Phạm T đã khai nhận về toàn bộ hành vi của mình như đã nêu trên. Lời nói sau cùng, bị cáo thể hiện ăn năn, hối cải, bị cáo bị HIV từ năm 2010, hiện vẫn đang điều trị bệnh xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Phạm T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Đối chiếu lời khai nhận của bị cáo với lời khai của người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án là hoàn toàn phù hợp. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để xác định:

Khoảng 20 giờ 20 phút ngày 22 tháng 12 năm 2021 tại trước nhà đường M, Phường N, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Công an Phường N, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu kiểm tra, bắt quả tang Pham T đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,2325 gam ma túy, loại Heroine để sử dụng.

Hành vi bị cáo Phạm T đã thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ đối với hành vi phạm tội của bị cáo: Xét tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra là nguy hiểm; đã xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình chính trị, xã hội tại địa phương. Khi phạm tội, bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo có nhân thân xấu. Do đó, cần có một hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ đối với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm giáo dục riêng và răn đe, phòng ngừa chung về tội phạm.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có một tiền án nên lần phạm tội này bị cáo thuộc trường hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo đang bị bệnh HIV nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, để bị cáo nhận thức được sự khoan hồng của pháp luật mà cải tạo tốt.

[5] Về xử lý vật chứng vụ án:

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy đã qua giám định là tang vật vụ án.

- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại Nokia màu xanh đen, imei 359021098694279.

[6] Đối với đối tượng tên H là người đi mua ma túy để sử dụng cùng Phạm T do không rõ lai lịch, cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ đủ căn cứ xử lý sau.

 [7] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 điều 52, điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Phạm T 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22 tháng 12 năm 2021.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy ma túy là 01 gói niêm phong số 35/KLGĐ-PC09-Đ2-MT ngày 30-12-2021 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại Nokia màu xanh đen, imei 359021098694279.

Thực hiện thi hành án theo Biên bản giao nhận vật chứng số 128/BB.CCTHA ngày 19-4-2022 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố V.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

138
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 128/2022/HS-ST

Số hiệu:128/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:20/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về