TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 127/2022/HS-ST NGÀY 28/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 96/2022/TLST-HS ngày 15 tháng 4 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 111/2022/QĐXXST-HS 18 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:
Lê Hoàng T (tên gọi khác: Giáp), sinh năm 1989 tại tỉnh Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: Số 4 đường L T X, khu phố B, phường L Đ, thành phố Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Lao động; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Hoàng Ch, sinh năm 1963 và bà Võ Thị M, sinh năm 1959; có 01 em ruột, sinh năm 1990; có 01 con ruột, sinh năm 2007; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân:
- Ngày 13/5/2011, bị Tòa án nhân dân thị xã D A (nay là thành phố D A), tỉnh Bình Dương xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội Cướp giật tài sản, theo Bản án hình sự sơ thẩm số 122/2011/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 04/01/2014, đóng án phí ngày 11/10/2011;
- Ngày 24/10/2014, bị Tòa án nhân dân quận Th Đ (nay là thành phố Th Đ), Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù về tội Đánh bạc, theo Bản án hình sự sơ thẩm số 349/2014/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 23/6/2015, đóng án phí ngày 15/7/2015;
- Ngày 22/5/2017, bị Tòa án nhân dân quận Th Đ (nay là thành phố Th Đ), Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng, theo Quyết định số 161/QĐ- TA, chấp hành xong quyết định ngày 01/5/2019;
- Ngày 27/8/2020, bị Công an phường L Đ, quận Th Đ (nay là thành phố Th Đ), Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy với số tiền 750.000 đồng, đóng tiền phạt ngày 04/12/2020.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/12/2021 cho đến nay; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
*Người tham gia tố tụng khác:
- Người chứng kiến: Chị Lại Thị T; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bản thân Lê Hoàng T là người nghiện ma túy. Khoảng 05 giờ ngày 25/12/2021, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên T điều khiển xe mô tô hiệu Honda Vision, biển số 59X3-443.55 đi đến khu vực cổng bến xe M Đ thuộc quận B Th, Thành phố Hồ Chí Minh gặp môt người đàn ông (chưa rõ nhân thân, lai lịch) mua 800.000 đồng ma túy được gói trong 01 túi nilon miệng kéo dính, chứa chất tinh thể màu trắng và để trong vỏ bao thuốc lá hiệu Jet. Sau khi mua ma túy xong, T cất giấu bao thuốc lá vào trong hộc để đồ phía trước, bên trái xe mô tô biển số 59X3-443.55 rồi điều khiển xe về nhà. Đến khoảng 09 giờ ngày 25/12/2021, T điều khiển xe mô tô biển số 59X3-443.55 đến nhà chị Lại Thị T (bạn gái của T) để chở chị T đi chơi. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, khi T đang chở chị T đến trước nhà số 77 đường Ph Ch thuộc khu phố B Đ 3, phường A B, thành phố D A, tỉnh Bình Dương thì bị lực lượng Công an phường A B phối hợp với đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế - ma túy Công an thành phố Dĩ An tuần tra kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện trong hộc để đồ phía trước, bên trái xe mô tô biển số 59X3- 443.55 có 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Jet bên trong 01 gói nilon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng, T khai nhận là ma túy của mình, mua về để sử dụng nên lực lượng Công an lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang cùng vật chứng.
Vật chứng thu giữ: 01 (một) gói nilon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng; 01 (một) vỏ bao thuốc lá hiệu Jet; 01 (một) xe mô tô hiệu Honda Vision biển số 59X3-443.55.
Căn cứ Kết luận giám định số 33/MT-PC09 ngày 31/12/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Tinh thể màu trắng có trong 01 gói nilon hàn kín thu giữ của Lê Hoàng T là ma túy, có khối lượng 2,4772 gam, là ma túy loại Methamphetamine.
Quá trình điều tra bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về Kết luận giám định số 33/MT-PC09 ngày 31/12/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương.
Đối với đàn ông bán ma túy cho Lê Hoàng T tại khu vực cổng bến xe M Đ thuộc quận B Th, Thành phố Hồ Chí Minh, hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D A, tỉnh Bình Dương tiếp tục điều tra, xác minh xử lý sau.
Đối với Lại Thị T, không biết bị cáo Lê Hoàng T cất giấu ma túy trong người để sử dụng nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D A, tỉnh Bình Dương không đề cập xử lý.
Bản Cáo trạng số 125/CT-VKS ngày 13 tháng 4 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Lê Hoàng T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, trong phần tranh tụng đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã nêu, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Lê Hoàng T với mức án từ 01 (một) năm 08 (tám) tháng đến 02 (hai) năm tù.
* Về xử lý vật chứng:
- Đối với 01 (một) bì thư đã niêm phong số 33/PC09 bên trong có ma túy còn lại sau giám định 2,4248 gam, loại Methamphetamine và 01 (một) vỏ bao thuốc Jet, là vật cấm lưu thông và công cụ sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 01 (một) xe mô tô hiệu Honda Vision, biển số 59X3-443.55, số khung: RLHJF5831KY0585111, số máy: JF86E2122924 là xe do Lê Hoàng T làm chủ sở hữu, bị cáo Tuấn sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.
Quá trình tố tụng, bị cáo có đơn xin xét xử vắng mặt và bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa, bị cáo vắng mặt nên không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về điều luật áp dụng, khung hình phạt, xử lý vật chứng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình tố tụng, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Đối với bị cáo Lê Hoàng T có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 290 Bộ luật Tố tụng hình sự, Tòa án xét xử vắng mặt bị cáo.
[2] Về căn cứ xác định bị cáo phạm tội: Căn cứ vào lời khai của bị cáo và người chứng kiến; biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 25/12/2021, Kết luận giám định số 33MT-PC09 ngày 31/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương và những chứng cứ, tài liệu được thu thập trong hồ sơ vụ án, xác định: Khoảng 11 giờ ngày 25/11/2021, trước nhà số 77 đường Ph Ch, khu phố B Đ 3, phường A B, thành phố D A, Bình Dương. Lực lượng Công an phường A B phối hợp với Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế - ma túy Công An thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương bắt quả tang Lê Hoàng T đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy có khối lượng 2,4772 gam, loại Methamphetamine.
Như vậy, hành vi tàng trữ ma túy có khối lượng 2,4772 gam, loại Methamphetamine của bị cáo Lê Hoàng T với mục đích để sử dụng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Do đó, Cáo trạng số 125/CT-VKS ngày 13 tháng 4 năm 2022 của Viện kiểm sát thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo cũng như bản luận tội của Kiểm sát viên đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.
[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.
[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét trong quá trình tố tụng, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[6] Về nhân thân: Bị cáo người có nhân thân xấu thể hiện bị cáo đã nhiều lần bị Tòa án xét xử, đã từng đưa đi cai nghiện bắt buộc và người nghiện ma túy nhưng không xem đó là bài học kinh nghiệm cho bản thân mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.
[7] Về hình phạt:
- Hình phạt chính: Xét bị cáo phạm tội nghiêm trọng, đã xâm phạm vào sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma tuý, đồng thời bị cáo là người có nhân thân xấu và người nghiện ma túy, hành vi phạm tội của bị cáo gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.Vì vậy Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.
- Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, áp dụng phạt tù cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[8] Về xử lý vật chứng:
- Xét 01 (một) bì thư đã niêm phong số 33/PC09 bên trong có ma túy còn lại sau giám định 2,4248gam, loại Methamphetamine và 01 (một) vỏ bao thuốc Jet, là vật cấm lưu thông và công cụ sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.
- Xét 01 (một) xe mô tô hiệu Honda Vision, biển số 59X3-443.55, số khung: RLHJF5831KY0585111, số máy: JF86E2122924 là xe do Lê Hoàng T làm chủ sở hữu, bị cáo T sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.
[9] Đối với đàn ông bán ma túy cho Lê Hoàng T tại khu vực cổng bến xe M Đ thuộc quận B Th, Thành phố Hồ Chí Minh, hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D A, tỉnh Bình Dương tiếp tục điều tra, xác minh xử lý sau và đối với Lại Thị T, không biết bị cáo Lê Hoàng T cất giấu ma túy trong người để sử dụng nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D A, tỉnh Bình Dương không đề cập xử lý, là đúng theo quy định của pháp luật.
[10] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đưa ra tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân, mức hình phạt đối với bị cáo cũng như việc xử lý vật chứng là phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử do vậy được chấp nhận.
[11] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Lê Hoàng T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
- Xử phạt bị cáo Lê Hoàng T 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25/12/2021.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 89; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
- Tịch thu tiêu hủy (một) bì thư đã niêm phong số 33/PC09 bên trong có ma túy còn lại sau giám định 2,4248gam, loại Methamphetamine và 01 (một) vỏ bao thuốc Jet.
- Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước (một) xe mô tô hiệu Honda Vision, biển số 59X3-443.55, số khung: RLHJF5831KY0585111, số máy: JF86E2122924.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/4/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Dĩ An).
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Lê Hoàng T phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt bản án hợp lệ./.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 127/2022/HS-ST
Số hiệu: | 127/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/04/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về