Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 126/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 126/2023/HS-ST NGÀY 15/06/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 06 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, xét xử trực tuyến công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 141/2023/TLST-HS ngày 02/06/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 126/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 06 năm 2023 đối với bị cáo:

DƯƠNG VĂN V, sinh năm: 1991; HKTT: Thôn G, xã T, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái; chỗ ở: không nơi ở cố định; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; văn hóa: 7/10; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Dương Văn P, sinh năm1954 và con bà Lương Thị H, sinh năm 1960. Theo danh chỉ bản số 307 ngày 13/4/2023 của Công an quận L Biên và lý lịch địa phương cung cấp bị cáo không có tiền án, tiền sự. Tạm giữ ngày 07/4/2023, tạm giam từ ngày 13/4/2023, hiện đang bị Tạm giam tại Trại tam giam số 2- Công an thành phố Hà Nội (có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 15 phút ngày 07/04/2023, tổ công tác Công an phường Ngọc Lâm, quận L Biên thành phố Hà Nội làm nhiệm vụ tại trước cửa số nhà 9/53/2 Ngô Gia Tự thuộc phường Đức Giang, quận L Biên, thành phố Hà Nội phát hiện 01 nam thanh niên có biểu hiện nghi vấn đang đi bộ nên tỏ công tác tiến hành điều tra hành chính. Quá trình kiểm tra, tổ công tác phát hiện trong túi quần nhỏ bên phải phía trước nam thanh niên đang mặc có 01 tờ tiền mệnh giá 2.000 đồng gấp nhỏ bên trong chứa chất bột trắng. Tại chỗ, đối tượng khai nhận tên là Dương Văn V (sinh năm 1991, hộ khẩu thường trú: thôn Nghềnh Gai, xã Tân Hợp, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái) và gói giấy bên trong chứa chất bột màu trắng là ma túy heroine V mua về để sử dụng. Tổ công tác đã lập biên bản thu giữ tang vật và đưa V về trụ sở làm việc.

Tang vật thu giữ gồm: 01 tờ tiền mệnh giá 2.000 đồng bên trong chứa chất bột màu trắng; 01 điện thoại Iphone 6S plus màu ghi xám; 01 căn cước công dân gắn chip mang tên Dương Văn V.

Quá trình kiểm tra, tạm giữ V có anh Hoàng Trọng Tuyển, sinh năm: 2000, HKTT: 19/399 Ngọc Lâm, L Biên, Hà Nội là người chứng kiến.

Tại Kết luận giám định số 2239/KL-KTHS ngày 15/04/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an TP. Hà Nội kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 01 gói bằng tờ tiền mệnh giá 2.000 đồng là ma túy loại Heroine, khối lượng 0,122 gam.

Tại cơ quan công an V khai nhận: Khoảng 19 giờ ngày 07/04/2023, do nghiện ma túy và có nhu cầu sử dụng nên khi có người bạn xã hội tên L (V không rõ tên tuổi địa chỉ chính xác) rủ V đi mua ma túy thì V đã đồng ý. V đưa cho L 100.000đồng để mua ma túy. Còn L dùng xe máy của mình chở V đến khu vực Từ Sơn, Bắc Ninh để tìm mua ma túy. Tại đây, V và L gặp một người đàn ông đứng ở ven đường, L hỏi mua ma túy của người này rồi đưa lại cho V 01 tờ tiền mệnh giá 2000đồng đã được gấp lại. V biết bên trong tờ tiền có chứa ma túy heroin nên cất vào túi quần nhỏ bên phải phía trước V đang mặc rồi cùng đi về với L để tìm chỗ sử dụng. Khi đi đến đầu ngõ 53 Ngô Gia Tự thuộc phường Đức Giang, L Biên, Hà Nội, L dừng xe để V xuống đi bộ. Khi V đang đi đến trước cửa số nhà 9/53/2 Ngô Gia Tự thì bị cơ quan công an yêu cầu kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra, cơ quan công an phát hiện 01 tờ tiền mệnh giá 2.000đồng gấp nhỏ bên trong chứa heroin V vừa mua để trong túi quần nhỏ bên phải phía trước V đang mặc. Tại chỗ, V khai nhận là ma túy heroin vừa mua về để sử dụng. Cơ quan công an đã lập biên bản thu giữ tang vật và đưa V về trụ sở làm rõ.

Lời khai của Dương Văn V phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác mà cơ quan điều tra đã thu thập được. Đối với đối tượng tên L đi mua ma túy cùng V và người bán ma túy cho L và V tại khu vực Từ Sơn, Bắc Ninh do V khai không biết là ai, tên tuổi địa chỉ ở đâu nên Cơ quan điều tra chưa có cơ sở để điều tra làm rõ.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 plus màu ghi xám đã qua sử dụng và 01 căn cước công dân thu của Dương Văn V, quá trình điều tra xác định V không sử dụng vào việc phạm tội, chuyển Tòa án nhân dân quận L Biên, thành phố Hà Nội xem xét giải quyết.

Tại bản cáo trạng số 147/CT-VKSLB ngày 31/5/2023 Viện kiểm sát nhân dân quận L Biên truy tố các bị cáo Dương Văn V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi của mình theo nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa thấy rằng: Hành vi của bị cáo Dương Văn V đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Về hình phạt đề nghị HĐXX: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, của Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo V.

Đề nghị xử phạt bị cáo với mức án: từ 13 đến 16 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: Đề nghị tịch thu tiêu hủy: 0,112 gam ma túy Heroine thu giữ của V là vật nhà nước cấm lưu hành; Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu ghi xám đã qua sử dụng; 01 căn cước công dân gắn chíp mang tên Dương Văn V.

Nói lời sau cùng, bị cáo nhận thức hành vi của mình là sai do bản thân nghiện ma túy, không làm chủ được bản thân nên đã vi phạm pháp luật, bị cáo mong HĐXX cho bị cáo được giảm nhẹ hình phạt sớm trở về hòa nhập cộng đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận L Biên, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận L Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định bị cáo có tội: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa thống nhất và phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, của người làm chứng, biên bản về việc bắt người, vật chứng, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ. Có đủ cơ sở khẳng định: Hồi 20 giờ 50 phút ngày 07/4/2023, tại khu vực trước cửa nhà số 9/53/2 Ngô Gia Tự, phường Đức Giang, L Biên, Hà Nội, Dương Văn V có hành vi tàng trữ trái phép 0,122 gam ma túy Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Công an phường Ngọc Lâm phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

[3] Về vai trò và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của nhà nước đối với các chất ma tuý, xâm phạm đến trật tự công cộng. Tệ nạn ma tuý đã và đang huỷ hoại sức khoẻ, nhân cách của nhiều người, là hiểm họa, đe dọa đến cuộc sống bình yên của mọi người, mọi nhà và toàn xã hội, là một trong những nguyên nhân gây mất trật tự an toàn xã hội, là nguồn gốc của nhiều loại tội phạm.

- Xét nhân thân bị cáo V: Bị cáo là người nghiện ma túy, nhân thân chưa có tiền án tiền sự, bị cáo nhận thức được việc tàng trữ, sử dụng các chất ma túy bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn thực hiện, do đó cần phải xử phạt bị cáo một hình phạt tù cách ly với xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời đáp ứng yêu cầu phòng ngừa chung.

+ Về tình tiết tăng nặng: Không + Về tình tiết giảm nhẹ: Khi lượng hình HĐXX cũng xem xét, tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; nhận thức pháp luật kém và hoàn cảnh gia đình khó khăn; phạm tội lần đầu nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, không có khả năng thi hành phạt bổ sung bằng tiền nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[5] Về xử lý vật chứng: tịch thu tiêu hủy: 0,122 gam ma túy Heroine thu giữ của V là vật nhà nước cấm lưu hành. Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu ghi xám đã qua sử dụng; 01 căn cước công dân gắn chíp mang tên Dương Văn V.

[6] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo Dương Văn V.

2. Tuyên bố: Bị cáo Dương Văn V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt: Bị cáo Dương Văn V 14 (Mười bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/04/2023.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên ngoài có chữ ký Dương Văn V, Cán bộ công an phường Ngọc Lâm: Dương Quốc Chính, GĐV: Lê Khắc Nam và dấu niêm phong bên trong có 0,122 gam ma túy Heroine (thu mẫu 0,011 gam) thu giữ của V là vật nhà nước cấm lưu hành;

- Trả lại bị cáo: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu ghi xám đã qua sử dụng không kiểm tra chất lượng bên trong. Bên trong có 01 sim.

- Trả lại bị cáo: 01 căn cước công dân gắn chíp mang tên Dương Văn V (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/6/2023 tại Chi cục thi hành án quận L Biên);

- Tịch thu sung công: 01 tờ tiền mệnh giá 2.000 đồng (Theo giấy nộp tiền vào tài khoản số 01 ngày 01/06/2023 tại Kho bạc Nhà nước quận L Biên).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo V phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

27
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 126/2023/HS-ST

Số hiệu:126/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về