Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 126/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 126/2022/HS-PT NGÀY 21/02/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 918/2021/HSPT ngày 08 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo Phạm Ngọc Q do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 242/2021/HSST ngày 29/9/2021 của Tòa án nhân dân quận HB, thành phố Hà Nội.

Bị cáo có kháng cáo: Phm Ngọc Q, sinh năm 1976; giới tính: nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú tổ dân phố Trung 3, phường X, quận BT, Hà Nội; nơi ở P2004 Chung cư Ecolife phường XL, quận TH, Hà Nội; nghề nghiệp tự do; trình độ văn hóa 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông Phạm Ngọc M và bà Nguyễn Thị Kim Ch; vợ Nguyễn Dương Diệu Th và có 02 con (con lớn sinh năm 2001, con nhỏ sinh năm 2012); tiền án, tiền sự không; tạm giữ từ ngày 16/6/2021 đến ngày 25.6.2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn và áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận HB và Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân quận HB, Hà Nội thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14h20' ngày 16/6/2021, tổ công tác Công an phường Thanh Lương, quận HB, thành phố Hà Nội đang làm nhiệm vụ tuần tra khi đi đến trước cửa số nhà 1 ngõ 86 phố Thanh Nhàn, phường Thanh Nhàn, quận HB đã phát hiện Phạm Ngọc Q đang đi bộ có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra Q tự giác lấy từ túi quần phía trước bên phải Q đang mặc ra 01 túi nylon kích thước 3x5cm bên trong chứa 6 viên nén hình chữ nhật màu ghi xám trên bề mặt mỗi viên có in số 2.0 trong đó có 01 viên bị vỡ giao nộp cho tổ công tác (Q tự khai là ma túy thuốc lắc mua về sử dụng). Tổ công tác đã tiến hành thu giữ, niêm phong tang vật và đưa Q về trụ sở Công an phường Thanh Nhàn để tiếp tục làm rõ. Ngoài ra tổ công tác còn thu giữ của Q 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng đã qua sử dụng.

Tại bản kết luận giám định số 4987/PC09 ngày 22/6/2021 của phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hà Nội kết luận:

06 viên nén (trong đó có 01 viên nén bị vỡ) hình chữ nhật màu ghi xám, trên bề mặt mỗi viên có dập số 2.0 bên trong 01 túi nylon đều là ma túy loại MDMA, tổng khối lượng: 2,878 gam.

Tại cơ quan điều tra, Phạm Ngọc Q khai nhận: Do bản thân có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 14h ngày 16/6/2021, Q đi bộ đến khu vực đầu ngõ 86 Thanh Nhàn, phường Thanh Nhàn để mua ma túy về sử dụng. Tại đây, Q mua 6 viên ma túy với giá 1.800.000đ của một người nam thanh niên không quen biết (hiện không xác định nhân thân, địa chỉ). Sau khi mua được ma túy, Q cất vào túi quần phía trước bên phải Q đang mặc và đi bộ về nhà. Khoảng 14h20' cùng ngày, khi Q vừa đi đến trước cửa số nhà 1 ngõ 86 Thanh Nhàn, phường Thanh Nhàn, quận HB thì bị cơ quan Công an kiểm tra bắt giữ như trên.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 242/2021/HSST ngày 29/9/2021 của Tòa án nhân dân quận HB, thành phố Hà Nội đã xét xử:

Tuyên bố bị cáo Phạm Ngọc Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 Xử phạt: Phạm Ngọc Q 27 (hai mươi bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án (được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 16/6/2021 đến ngày 25/6/2021).

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định xử lý vật chứng; án phí và quyền kháng cáo của bị cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 11/10/2021, bị cáo Phạm Ngọc Q có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, chỉ đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội trình bày quan điểm giải quyết vụ án.

Căn cứ lời khai của bị cáo; Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ, hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo để quyết định xử phạt bị cáo mức hình phạt 27 tháng tù là cần thiết. Tuy nhiên, tại cấp phúc thẩm bị cáo xuất trình đơn xin giảm nhẹ hình phạt, có xác nhận của chính quyền địa phương, theo đó bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, nhà cửa không có phải đi thuê, bố mẹ già yếu, con còn nhỏ, bản thân bị bệnh tiểu đường sức khỏe yếu. Đây là tình tiết mới giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do đó, có cơ sở giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Từ phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm, giảm một phần hình phạt cho bị cáo, xử phạt bị cáo mức án từ 21 đến 24 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về tố tụng:

Kháng cáo của bị cáo trong hạn luật định nên hợp lệ được chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

Về nội dung: Căn cứ lời khai của bị cáo; Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14h20' ngày 16/6/2021, tại khu vực trước cửa số nhà 1 ngõ 86 Thanh Nhàn, phường Thanh Nhàn, quận HB, Hà Nội, Phạm Ngọc Q đã có hành vi tàng trữ trái phép 2,878 gam MDMA để sử dụng cho bản thân. Với hành vi trên, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét kháng cáo của bị cáo thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, là một trong những nguyên nhân làm gia tăng các loại tội phạm và tệ nạn trong xã hội, gây mất trật tự trị an và ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn Thủ đô. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi, biết rõ việc mua bán, tàng trữ, sản xuất, vận chuyển, chiếm đoạt, sử dụng các chất ma túy đều bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý tàng trữ 2,878 gam MDMA để sử dụng cho bản thân. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo để xử phạt bị cáo mức án 27 tháng tù là cần thiết. Tuy nhiên, xét nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, lần đầu đưa ra xét xử; quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình bị cáo có bố mẹ là người có công với cách mạng được thưởng huân chương; tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo xuất trình đơn xin giảm nhẹ hình phạt có xác nhận của chính quyền địa phương nội dung thể hiện hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, bố mẹ già yếu ốm đau thường xuyên (bố sinh năm 1939, mẹ sinh năm 1942), nhà ở không có phải đi thuê, con còn nhỏ, bản thân ốm yếu bị bệnh tiểu đường. Đây là tình tiết mới giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, xét thấy mức án 27 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm xét xử đối với bị cáo là có phần nghiêm. Do đó, có cơ sở giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Từ phân tích trên, cần chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm, giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

Về án phí: Bị cáo được chấp nhận kháng cáo nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, Chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm, xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 Xử phạt bị cáo Phạm Ngọc Q 21 (hai mốt) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án (được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 16/6/2021 đến ngày 25/6/2021).

2. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/02/2009 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Án phí, Lệ phí Tòa án; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Phạm Ngọc Q không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày 21/02/2022.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

76
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 126/2022/HS-PT

Số hiệu:126/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về