Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 125/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT - TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 125/2022/HS-ST NGÀY 06/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 7 năm 2022, tại Hội trường Tổ dân phố 13, Phường 4, Thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 133/2022/TLST-HS ngày 15 tháng 6 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 131/2022/QĐXXST - HS ngày 22/6/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thị Thùy T, sinh năm: 1994, tại: Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số B đường L, Phường M, Quận G, thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: Số S đường L1, Phường M1, Thành phố Đ, Tỉnh Lâm Đồng; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; con ông: Nguyễn Văn B, sinh năm: 1954 (đã chết) và bà: Phạm Thị T, sinh năm: 1953 chức vụ, đoàn thể, đảng phái: Không; tiền án: Không, tiền sự: Quyết định số 598/QĐ-UBND ngày 29/9/2021, Ủy ban nhân dân Phường 1, thành phố Đà Lạt áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường đối với Nguyễn Thị Thùy T về hành vi sử dụng trai phép chất ma túy; đã chấp hành xong vào ngày 29/12/2021. Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 05/01/2022, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đà Lạt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Hồ Khắc P, sinh năm: 1967.

Địa chỉ: Số N đường X, Phường T1, Thành phố Đ, Tỉnh Lâm Đồng.

- Người chứng kiến: Ông Dương Thành H, sinh năm: 1958 Địa chỉ: Số S đường N, Phường M, Thành phố Đ, Tỉnh Lâm Đồng.

(Bị cáo có mặt; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người chứng kiến vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thị Thùy T sử dụng ma túy đá từ tháng 9/2021. Khoảng 13 giờ 30 phút, ngày 05/01/2022, T điều khiển xe mô tô Hon da AirBlade màu xám đen biển số: 49B1 - 10599 đến khu vực đường An Tôn, phường 5, Đà Lạt gặp và mua của một người nam thanh niên tên “Hí” (không rõ nhân thân, lai lịch) một gói ma túy đá với giá 200.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, T cầm gói ma túy trong tay trái rồi tiếp tục điều khiển xe đi về nhà. Đến 14 giờ 10 phút cùng ngày khi T đi đến trước số nhà 02B Nguyễn Văn Trỗi, Phường 1, Thành phố Đà Lạt. Do đi ngược chiều nên T bị Công an Phường 1 - Đà Lạt yêu cầu dừng xe để kiểm tra hành chính. Lo sợ bị phát hiện, T đã thả gói ma túy xuống đường nhưng đã bị cơ quan Công an phát hiện bắt quả tang phía dưới chân trái của T có 01 gói nylon được hàn kín, có kích thước 2x 3cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng. Nguyễn Thị Thùy T khai nhận đây là gói ma túy đá T cất giấu để sử dụng cho bản thân. Công an phường 1 đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong tang vật theo quy định (BL: 21-28; 58-87).

Tang vật thu giữ:

- 01 gói nylon được hàn kín, có kích thước 2x 3cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy.

- 01 xe mô tô Hon da AirBlade màu xám đen, biển số: 49B1 – 10599.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen (BL: 23, 46).

Tại bản kết luận giám định số: 08/GĐ - PC09 ngày 10/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng kết luận: Mẫu tinh thể đựng trong 01 gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng: 0,1431g.

Methamphetamine là chất ma túy, nằm trong Danh mục II, STT: 323, Nghị định 73/2018/NĐ - CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ (BL: 17-20).

Đối với 01 xe mô tô Honda AirBlade màu xám đen, biển số: 49B1 - 10599, quá trình điều tra xác định chiếc xe này do ông Hồ Khắc Phúc, sinh năm 1967, trú tại: 322/51 Mai Xuân Thưởng, phường 8, Đà Lạt là chủ sở hữu, ông Phúc không biết T mượn xe đi mua ma túy. Cơ quan CSĐT Công an thành phố Đà Lạt đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe trên cho ông Phúc, ông Phúc đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì thêm.

Tại bản cáo trạng số 135/CT-VKSĐL ngày 14/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt truy tố bị cáo Nguyễn Thị Thùy T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị Thùy T khai nhận, bản thân bị cáo có sử dụng ma túy nên có mua ma túy cất giữ để sử dụng. Vào khoảng 14 giờ 10 ngày 05/01/2022, tại trước số nhà số 02B Nguyễn Văn Trỗi, Phường 1, Thành phố Đà Lạt, do đi đường ngược chiều nên bị Công an Phường 1 - Đà Lạt yêu cầu dừng xe kiểm tra hành chính, do sợ phát hiện nên T đã thả 01 gói ma túy xuống phía dưới chân trái của T, thì Công an bị phát hiện bắt quả tang như cáo trạng truy tố là hoàn toàn chính xác; bị cáo không thắc mắc, khiếu nại về cáo trạng truy tố và xin được giảm nhẹ hình phạt.

Sau phần luận tội, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Thị Thùy T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thùy T từ 18 (mười tám) đến 24 (hai mươi bốn) tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu toàn bộ số ma túy là tang vật của vụ án đã qua giám định; tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Thị Thùy T: Là đối tượng sử dụng ma và để có ma túy sử dụng, vào ngày 05/01/2022, T mua của Hí (không rõ nhân thân, lai lịch) 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng. Đến khoảng 14 giờ 10 cùng ngày khi T đang đi xe máy vào đoạn đường ngược chiều đến trước số nhà 02B Nguyễn Văn Trỗi, Phường 1, Thành phố Đà Lạt thì bị Công an Phường 1 kiểm tra hành chính, phát hiện bắt quả tang thu giữ 01 gói ma túy do T thả xuống ngay chân trái của T. T khai nhận gói ma túy là của T mua về cất giữ mục đích để sử dụng.

Tại Kết luận giám định số 08/GĐ-PC09 ngày 10/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng kết luận: 01 (một) gói nylon chứa chất tinh thể màu trắng được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1431g (không phẩy một bốn ba một gam), loại Methamphetamine.

[3] Xét thấy, bị cáo Nguyễn Thị Thùy T là người đã trưởng thành có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và là đối tượng sử dụng ma túy. Bản thân bị cáo vừa chấp hành xong quyết định xử lý hành chính về hành vi sử dụng trái phép ma túy nên càng biết rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật, nhưng là đối tượng nghiện ma túy và để có ma túy sử dụng, bị cáo vẫn thực hiện nhằm thỏa mãn cho nhu cầu cá nhân. Hành vi của Nguyễn Thị Thùy T không chỉ vi phạm pháp luật về chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội tại địa phương mà còn là một trong những nguyên nhân góp phần gây ra những tệ nạn xã hội khác. Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa; lời khai của bị cáo, của người làm chứng trong quá trình điều tra, phù hợp với tài liệu chứng cứ đã thu thập trong quá trình điều tra vụ án. Có đủ căn cứ kết luận hành vi của Nguyễn Thị Thùy T phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự như cáo trạng số 135/CT-VKSĐL ngày 14/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng truy tố và kết luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Do bị cáo thành khẩn khai báo thể hiện sự ăn năn hối lỗi về hành vi phạm tội của mình nên áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự là tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo là phù hợp.

[5] Trong vụ án này còn có Hí (không rõ nhân thân, lai lịch) là người đã bán ma túy cho T, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Đà Lạt tiếp tục xác minh khi nào làm rõ sẽ xử lý theo quy định.

[6] Về xử lý vật chứng: Cơ quan Điều tra đã thu giữ tang vật gồm: 01 gói nylon được hàn kín, có kích thước 2x 3cm, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, qua giám định xác định là chất ma túy, là chất cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, là phương tiện bị cáo sử dụng để liên lạc mua ma túy nên 5ich thu bán sung Công quỹ Nhà nước là phù hợp Riêng 01 chiếc xe môtô hiệu Honda AirBlade màu xám đen, biển số 49B1- 105.99, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là ông Hồ Khắc Phúc, ông Phúc không có ý kiến yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử sơ thẩm không đề cập xem xét.

[7] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Thùy T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thùy T 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/01/2022.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a và c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

2.1. Tịch thu tiêu hủy tang vật gồm:

- 01(một) phong bì niêm phong số: 08/2022-PC09. Mặt trước phong bì ghi Nguyễn Thị Thùy T - 1994; NCT: 136 Lý Tự Trọng, P1, Đà Lạt. QĐTC:

07/QĐ-ĐCSMT; 06/01/2021. Bao gói. Mặt sau có chữ ký, họ tên của Nguyễn Thị Thanh Hiếu, Phạm Thị Dung, Nguyễn Văn Chiến và đóng dấu niêm phong hình tròn, màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Tỉnh Lâm Đồng.

2.2. Tịch thu bán sung Ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia (đã được niêm phong, không kiểm tra chất lượng bên trong).

(Theo biên bản giao, nhận tang vật ngày 16/6/2022 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đà Lạt và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Nguyễn Thị Thùy T phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo được quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn nêu trên kể từ ngày nhận được bản sao hoặc niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 125/2022/HS-ST

Số hiệu:125/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về