Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 123/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 123/2021/HS-ST NGÀY 09/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 124/2021/TLST-HS ngày 11 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 134/2021/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 10 năm 2021, đối với bị cáo:

Hà Văn H, sinh ngày 13 tháng 4 năm 1996 tại tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn Đồng T, xã Đồng G, huyện V, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Văn C (đã chết) và bà Vy Thị Q, sinh năm 1970; chưa có vợ, con; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 10-6- 2021 bị Ủy ban nhân dân xã Đồng G, huyện V, tỉnh Lạng Sơn áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn theo Quyết định số 285/QĐ-UBND (chưa chấp hành xong Quyết định); nhân thân: Chưa bị xử lý trách nhiệm hình sự, xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật; bị bắt tạm giữ từ ngày 05-7-2021, tạm giam từ ngày 08-7-2021 đến nay; có mặt.

- Người chứng kiến: Ông Vy Trường G; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 08 giờ 30 phút ngày 05-7-2021, tại đường Lương Văn T, phường H, thành phố L, Công an thành phố L phát hiện bắt quả tang Hà Văn H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ 01 (một) gói giấy màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng; 02 (hai) bơm kim tiêm, 01 (một) ống nước cất Novocain 3%.

Tại Kết luận giám định số 263/KL-PC09 ngày 06-7-2021, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận chất bột màu trắng gửi giám định là chất ma túy Heroine, có tổng khối lượng 0,174 gam (đã trừ bì).

Tại Cáo trạng số 129/CT-VKS ngày 11-10-2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Hà Văn H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Hà Văn H thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hà Văn H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù; không áp dụng khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự phạt bổ sung đối với bị cáo; áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 47 Bộ luật Hình sự, tịch thu để tiêu hủy chất ma túy là mẫu vật sau giám định, 02 (hai) bơm kim tiêm, 01 (một) ống nước cất Novocain 3%; căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo Hà Văn H biết hành vi đã thực hiện là sai, bị cáo xin hưởng mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình, trở thành người có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên: Quá trình điều tra, truy tố, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng; giải thích, hướng dẫn bị cáo về quyền tiếp cận trợ giúp pháp lý, quyền nhờ người bào chữa theo quy định. Các quyết định, hành vi tố tụng đã được thực hiện là hợp pháp. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không khiếu nại quyết định, hành vi của người tiến hành tố tụng.

[2] Về thủ tục tố tụng: Ông Vy Trường G là người chứng kiến vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có lời khai trong hồ sơ vụ án, việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Căn cứ Điều 296 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông Vy Trường G theo quy định.

[3] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Hà Văn H khai nhận bị cáo nghiện chất ma túy Heroin từ khoảng cuối năm 2020, thường sử dụng ma túy dưới hình thức chích. Khoảng 07 giờ sáng ngày 05-7-2021, bị cáo đi xe ôm từ nhà tại thôn Đồng T, xã Đồng G, huyện V đến khu vực cầu ngầm, thành phố Lạng Sơn để kiểm tra chất lượng công trình (mái nhà) trước đây bị cáo đã nhận thi công. Sau khi kiểm tra xong, bị cáo tiếp tục đi xe ôm đến khu vực ngã 5, đường B, phường H, thành phố L để tìm mua ma túy sử dụng. Trên đường đi, bị cáo vào một cửa hàng bán thuốc mua 02 (hai) bơm kim tiêm và 01 (một) ống Novocain 3%. Đến khu vực ngã 5, đường B, bị cáo mượn điện thoại của người xe ôm và gọi vào số điện thoại 0983.981.237 cho một người phụ nữ không rõ lai lịch để hỏi mua ma túy Heroin. Người phụ nữ đồng ý và hẹn bị cáo đến khu vực nhà văn hóa khối 5, đường Lương Văn T, phường H, thành phố L để giao dịch. Bị cáo đi xe ôm đến địa điểm đó đứng đợi một mình khoảng 05 phút thì có một người phụ nữ đi xe máy điện màu xanh lá cây đến đưa cho bị cáo 01 (một) gói giấy màu trắng bên trong chứa ma túy Heroine. Bị cáo nhận ma túy và đưa cho người phụ nữ số tiền 100.000đ (một trăm nghìn đồng). Sau đó bị cáo cất giấu gói ma túy trong lòng bàn tay phải rồi đi bộ đến gần nhà văn hóa khối 5, đường Lương Văn T, phường H để sử dụng ma túy thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện quả tang như đã nêu. Khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ là 0,174 gam (đã trừ bì), mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, phù hợp với biên bản phạm tội quả tang và vật chứng thu giữ được. Do đó, có đủ cơ sở xác định bị cáo Hà Văn H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[4] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội thấy rằng hành vi mà bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự xã hội tại địa phương, xâm phạm chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Việc bị cáo sử dụng trái phép chất ma túy còn là hành vi vi phạm Luật Phòng, chống ma túy, tự hủy hoại sức khỏe của bản thân và đó cũng là nguyên nhân gián tiếp gây ra tệ nạn xã hội và các tội phạm khác.

[5] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, bị cáo có ông nội là ông Hà G được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[7] Về tiền sự: Ngày 10-6-2021 bị cáo bị Ủy ban nhân dân xã Đồng G, huyện V, tỉnh Lạng Sơn áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn theo Quyết định số 285/QĐ-UBND, bị cáo chưa chấp hành xong Quyết định thì bị bắt về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy.

[8] Từ những nhận định trên, thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, như vậy mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên cũng cần xem xét đến tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo trở thành người có ích cho xã hội.

[9] Theo tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án (Biên bản xác minh ngày 09-9-2021) và lời khai của bị cáo tại phiên tòa thể hiện bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản riêng. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[10] Đối với người phụ nữ đã bán ma túy cho bị cáo do bị cáo không biết họ tên, địa chỉ cụ thể nên không có cơ sở điều tra, xác minh, xử lý. Cơ quan điều tra đã ra lệnh thu giữ điện tín chi tiết lịch sử các cuộc gọi, nội dung tin nhắn của số thuê bao di động 0983.981.237 nhưng đến nay chưa có kết quả. Khi có kết quả thu giữ điện tín sẽ được xử lý sau.

[11] Xử lý vật chứng: Mẫu vật đã giám định đựng trong 01 (một) phong bì đã niêm phong là chất ma túy, là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ; 02 (hai) bơm kim tiêm và 01 (một) ống Novocain 3% là vật không có giá trị nên cần tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[12] Về án phí: Bị cáo Hà Văn H là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[13] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn cơ bản phù hợp, đúng với các quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[14] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án sơ thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 331 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ vào Điều 296, khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136, khoản 1 Điều 331 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh Tuyên bố bị cáo Hà Văn H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt Xử phạt bị cáo Hà Văn H 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05-7-2021.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng Tịch thu, tiêu hủy mẫu vật là chất ma túy còn lại sau giám định đựng trong 01 (một) phong bì niêm phong; 02 (hai) bơm kim tiêm chưa sử dụng; 01 (một) ống nước Novocain 3%.

(Vật chứng trên đang được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 11-10- 2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn).

4. Án phí Bị cáo Hà Văn H phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

5. Quyền kháng cáo Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 123/2021/HS-ST

Số hiệu:123/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về