TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Y - TỈNH NINH BÌNH
BẢN ÁN 12/2024/HS-ST NGÀY 05/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 05 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyệnY, tỉnh Ninh Bình; xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 10/2024/TLST-HS ngày 01/02/2024, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2024/QĐXXST-HS ngày 01/02/2024 đối với bị cáo:
Phạm Văn T sinh năm 1994; nơi cư trú xóm X, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp lao động tự do; trình độ văn hóa 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Phạm Văn T1 và bà Phan Thị G; vợ chưa có; tiền án: không; tiền sự: Ngày 18/5/2021 Toà án nhân dân huyện Y ra Quyết định áp dụng biện pháp xử phạt lý hành chính đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 24 tháng, bị cáo chấp hành xong ngày 01/6/2023; nhân thân: Quyết định số 03/QĐ-XPHC ngày 11/01/2021, của Công an xã K xử phạt vi phạm hành chính, phạt Cảnh cáo về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/12/2023 đến ngày 12/12/2023 chuyển tạm giam cho đến nay; có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Vợ chồng ông Phạm Văn T1, sinh năm 1971 và bà Phan Thị G, sinh năm 1972 cùng địa chỉ: xóm X, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình; đều vắng mặt.
Người chứng kiến: Anh Phạm Văn P, anh Đinh Xuân H; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Phạm Văn T là người sử dụng ma túy; khoảng 20h50 ngày 03/12/2023 T điều khiển chiếc xe đạp điện từ nhà đến khu vực gầm cầu vượt thuộc xóm chợ D, xã K, huyện Y để tìm mua ma tuý về sử dụng. Tại đây, T gặp và mua của một 2 người đàn ông không quen biết 300.000đ được một gói nhỏ, gói ngoài bằng lớp giấy ăn màu trắng, bên trong là túi nilon kẹp zip màu đỏ chứa chất tinh thể màu trắng. Sau khi mua được ma tuý T điều khiển xe đi về, khoảng 21h30’ cùng ngày khi đi đến đoạn đường dân sinh thuộc xóm chợ D, xã K, huyện Y thì gặp tổ Công tác công an xã K phối hợp cùng công an xã K đang tuần tra; do sợ bị phát hiện nên T thả gói ma tuý đang cầm trên tay trái xuống chỗ để chân của xe đạp điện đang điều khiển nhưng bị tổ công tác phát hiện và yêu cầu T nhặt gói nhỏ vừa vứt xuống để kiểm tra; T nhặt gói nhỏ và khai nhận đây là gói ma tuý đá vừa mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác cho túi ma tuý vào phong bì rồi niêm phong, sau đó đưa T cùng vật chứng và mời người chứng kiến về trụ sở Công an xã K lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng và lấy toàn bộ chất dạng tinh thể màu trắng thu giữ củaPhạm Văn T gửi trưng cầu giám định theo quy định của pháp luật.
Tại kết luận giám định số 921/KL-KTHS-MT ngày 09/12/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu M1 có khối lượng là 0,2746 gam, là ma túy, loại Methamphetamine. Quá trình điều tra, truy tố Phạm Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi cất giữ chất ma túy trên người để sử dụng cho bản thân thì bị Công an bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng như đã nêu.
Tại bản Cáo trạng số 08/CT-VKSYK ngày 31/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y truy tố bị cáo Phạm Văn T ra trước Tòa án nhân dân huyện Y để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù;
Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 túi nilon màu trắng + vỏ phong bì ký hiệu M; 01phong bì bên trong có mẫu hoàn trả sau giám định 0,2220g ma túy, loại Methamphetamine, toàn bộ vỏ bao gói niêm phong và 02 tờ giấy ăn màu trắng. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, nhất trí với luận tội của Kiểm sát viên, không có ý kiến tranh luận và bào chữa. Nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử, xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong 3 quá trình điều tra, truy tố, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ; kết luận giám định chất ma túy và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 22 giờ ngày 03/12/2023 tại trục đường dân sinh thuộc xóm chợ D, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình, Phạm Văn T có hành vi cất giữ trái phép trên người 0,2746 gam ma túy, loại Methamphetamine thì bị tổ công tác Công an xã Kh phối hợp cùng công an xã K phát hiện bắt quả tang. Bị cáo thực hiện hành vi mang theo chất ma túy để sử dụng cho bản thân là trái phép và nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về chất ma tuý mà còn làm ảnh hưởng trực tiếp đến trật tự xã hội.
Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
......
c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
Khối lượng ma túy Methamphetamine bị cáo tàng trữ quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự nên hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Viện kiểm sát nhân dân huyện Y truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[2] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng; trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo và bị cáo bị cụt cánh tay phải trong khi tham gia nghĩa vụ quân sự, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự; bị cáo có nhân thân xấu, có 01 tiền sự về áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng và bị Công an xã K xử phạt Cảnh cáo về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý.
[3] Xét tính chất hành vi phạm tội, mức độ nguy hiểm cho xã hội, khối lượng chất ma tuý bị cáo tàng trữ; tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, buộc bị cáo phải cách ly xã hội một thời hạn nhất định đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo; đồng thời đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội.
Bị cáo phạm tội không có mục đích kiếm lời nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[4] Về nguồn gốc ma túy: Bị cáo khai mua của một người đàn ông không quen biết ở khu vực gầm cầu vượt thuộc xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình, nên không có căn cứ điều tra xử lý.
[5] Về xử lý vật chứng: Đối với chiếc xe đạp điện thu giữ từ bị cáo, quá trình điều tra xác định là tài sản thuộc sở hữu của anh Phạm Văn T2 là em trai bị cáo, nhưng anh T2 để lại chiếc xe này cho bà Phan Thị G, sinh năm 1972 trú tại xóm X, xã K, huyện Y là mẹ đẻ quản lý sử dụng; bà G không biết bị cáo mượn xe để đi mua ma túy, nên Cơ quan điều tra đã trả cho bà G chiếc xe nêu trên.
Đối với 01phong bì ghi số 921/KTHS-MT bên trong có mẫu hoàn trả sau giám định 0,2220 gam ma túy, loại Methamphetamine, toàn bộ vỏ bao gói niêm phong; 01 túi nilon màu trắng + vỏ phong bì ký hiệu M và 02 tờ giấy ăn màu trắng toàn bộ số vật chứng này cần tịch thu tiêu hủy.
[6] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại gì; nên các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đều hợp pháp.
[7] Bị cáo T bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;
Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; các Điều 106, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, nộp án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên bố bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo 18 ( Mười tám) tháng tù; thời hạn phạt tù tính từ ngày tạm giữ 03/12/2023.
Tịch thu tiêu hủy 01phong bì ghi số 921/KTHS-MT bên trong có mẫu hoàn trả sau giám định 0,2220 gam ma túy, loại Methamphetamine, toàn bộ vỏ bao gói niêm phong; 01 túi nilon màu trắng + vỏ phong bì ký hiệu M và 02 tờ giấy màu trắng ( vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 23/02/2024 giữa Cơ quan CSĐT Công an huyệnY và Chi cục Thi hành án dân sự huyệnY, tỉnh Ninh Bình).
Buộc bị cáoPhạm Văn T phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Đều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 12/2024/HS-ST
Số hiệu: | 12/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về