Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 119/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ T.S, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 119/2021/HS-ST NGÀY 28/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 128/2021/TLST-HS ngày 08 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 120/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 4 năm 2021đối với bị cáo:

Bàn Văn G, sinh năm 1994 (tên gọi khác: không); HKTT:Xóm C.T, xã T.Q, huyện Y.S, tỉnh Tuyên Quang; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 07/12; Dân tộc: Dao; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bàn Văn Ch, sinh năm 1968 và bà Đặng Thị Đ, sinh năm 1968; Vợ: Triệu Thị Th, sinh năm 1995 (đã ly hôn); Có 01 con sinh năm 2012.

Tiền án, tiền sự: không;

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/12/2020. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh. Có mặt tại phiên tòa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 00 giờ 20 ngày 27/12/2020, tại khu phố N.G, phường Đ.N, thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh, phòng Cảnh sát cơ động Công an tỉnh Bắc Ninh bắt quả tang Bàn Văn G có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, G tự giao nộp 12 gói nhỏ nghi là ma túy gồm:11 gói nhỏ được bọc ngoài bằng lớp giấy bạc màu trắng, tiếp đến là lớp giấy màu trắng và 01 gói nhỏ được bọc ngoài bằng lớp giấy bạc màu vàng, tiếp đến là lớp giấy màu trắng bên trong đều chứa chất bột màu trắng đựng trong 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng. G khai nhận những gói nhỏ trên là ma túy heroine của G cất giấu để sử dụng cho bản thân.

Tại bản kết luận giám định số 89/KLGĐMT –PC09 ngày 29/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận:

“Chất bột màu trắng bên trong 01 phong bì thư gửi giám định có khối lượng 0,2352 gam; là ma túy; loại ma túy:Heroine.” Với nội dung trên, bản cáo trạng số 56/CT-VKS ngày 02/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S đã quyết định truy tố ra trước Tòa án nhân dân thị xã T.S để xét xử bị cáo Bàn Văn G về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận: Bản thân bị cáo đã sử dụng ma túy từ giữa năm 2020, loại ma túy thường dùng là heroine, hình thức sử dụng là chích vào cơ thể. Bị cáo không có nơi ở cố định, thường sống lang thang ở địa bàn thị xã T.S. Khoảng 23 giờ ngày 26/12/2020 bị cáo đi bộ đến cây xăng thuộc khu phố Mới, phường Đ.N, thị xã T.S. Tại đây, bị cáo gặp một người đàn ông không quen biết và hỏi mua 400.000 đồng ma túy heroine mục đích sử dụng cho bản thân. Người đàn ông đồng ý bán ma túy cho bị cáo. Bị cáo đưa 400.000đồng cho người đàn ông, người đàn ông cầm tiền và đưa lại cho bị cáo 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng bên trong chứa 12 gói nhỏ ma túy heroine. Bị cáo cất giấu số ma túy vừa mua được vào trong người. Đến khoảng 00 giờ 20 phút ngày 27/12/2020, bị cáo đang đi trên đường thuộc khu phố N.G, phường Đ.N, thị xã T.S thì bị lực lượng Công an kiểm tra, bị cáo tự nguyện giao nộp số ma túy trên. Ngoài số ma túy trên bị cáo không bị thu giữ gì khác.

Trên cơ sở phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo cũng như xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Bàn Văn G phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự. Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Xử phạt bị cáo Bàn Văn G từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 27/12/2020.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy mẫu vật ma túy còn lại sau giám định. Tại phiên tòa, bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Hồi 00 giờ 20 phút ngày 27/12/2020, tại khu phố Mới, phường Đ.N, thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh, Tổ tuần tra Phòng cảnh sát cơ động Công an tỉnh Bắc Ninh bắt quả tang Bàn Văn G có hành vi tàng trữ 0,2352 gam ma túy Heroine với mục đích sử dụng cho bản thân. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Bàn Văn G phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S đã truy tố.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tới chính sách quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội, ảnh hưởng tới sức khỏe con người và là cầu nối của đại dịch HIV. Đồng thời là nguyên nhân dẫn đến các tội phạm nguy hiểm khác. Nên cần phải xử lý nghiêm bị cáo theo quy định của Bộ luật hình sự mới có tác dụng giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

[3] Xét vê nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải với hành vi phạm tội củabản thân nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới giúp bị cáo cải tạo trở thành công dân sống có ích cho xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng cho bản thân, sống lang thang và không có nghề nghiệp ổn định, vì vậy Hội đồng xét xử không phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo như đề nghị của Viện kiểm sát.

[6] Về xử lý vật chứng: Mẫu vật còn lại sau giám định là chất cấm lưu hành nên cần tịch thu và tiêu hủy.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Liên quan trong vụ án này còn có đối tượng đã bán ma túy cho bị cáo. Quá trình điều tra chưa xác định được tên tuổi, địa chỉ cụ thể. Vì vậy,Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự. Điều 106; Điều 136; Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Bàn Văn G phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Xử phạt bị cáo Bàn Văn G 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 27/12/2020.

Tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đựng mẫu vật còn lại sau giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh (theo biên bản giao nhận vật chứng).

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 119/2021/HS-ST

Số hiệu:119/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Từ Sơn - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về