TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DUY TIÊN - HÀ NAM
BẢN ÁN 118/2023/HS-ST NGÀY 20/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 20 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Duy Tiên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 92/2023/HSST ngày 13 tháng 10 năm 2023, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 106/2023/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 11 năm 2023 đối với:
+ Bị cáo: Chu Hữu Tr, sinh năm 1999; nơi cư trú: Tổ dân phố Bạch X, phường Hoàng Đ, thị xã Duy T, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Chu Văn Th và bà Nguyễn Thị H; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 30/8/2023 cho đến nay; hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam (có mặt).
* Bị hại: Chị Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1997; nơi ĐKHKTT: Thôn Thư L, xã Nguyên L, huyện Lý Nh, tỉnh Hà Nam; chỗ ở: Thôn Yên B, xã Mộc B, thị xã Duy T, tỉnh Hà Nam; có mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Anh Nguyễn Văn Ngh, sinh năm 1977; địa chỉ: Tổ dân phố Lũng X, phường Yên B, thị xã Duy T, tỉnh Hà Nam; có mặt.
+ Chị Nguyễn Thị M, sinh năm 1995; địa chỉ: Thôn Thư L, xã Nguyên L, huyện Lý Nh, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.
+ Anh Đào Văn Tr, sinh năm 1996; địa chỉ: Thôn Yên B, xã Mộc B, thị xã Duy T, tỉnh Hà Nam; có mặt.
* Người làm chứng: Chị Đào Thị Ng, sinh năm 1984; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Chu Hữu Tr và chị Nguyễn Thị Thu H là bạn của nhau. Khoảng 16 giờ ngày 14/4/2023 chị H điều khiển xe mô tô BKS: 90B2 - X đến phòng trọ của Tr tại tổ dân phố Vân K, phường Châu Gi, thị xã Duy T, tỉnh Hà Nam chơi.
Sau đó, Tr hỏi chị H để mượn chiếc xe mô tô BKS: 90B2 - X để đi gặp bạn tại phường Hòa Mạc, thị xã Duy Tiên bàn bạc công việc làm ăn, chị H đồng ý. Sau khi gặp bạn xong, do không có tiền đầu tư làm ăn nên Tr nảy sinh ý định bán chiếc xe 90B2 - X đang mượn của chị H để có tiền. Tiếp đó, Tr điều khiển xe mô tô 90B2 - X đến cửa hàng mua bán xe máy của anh Nguyễn Văn Ngh tại TDP Lũng X, phường Yên B, thị xã Duy T hỏi bán xe mô tô BKS:
90B2 - X. Anh Ngh yêu cầu Tr xuất trình đăng ký xe và căn cước công dân thì Tr lấy ra trong cốp giấy đăng ký xe mô tô 90B2 - X và căn cước công dân mang tên Chu Hữu Tr cho anh Ngh xem. Thấy xe không chính chủ nên anh Ngh hỏi Tr xe là của ai thì Tr nói dối xe này là của Tr, Tr đã mua trước đó nhưng chưa sang tên đổi chủ. Anh Ngh tin tưởng là thật nên thống nhất mua xe mô tô BKS: 90B2 - X với giá 16.000.000đ. Sau khi về phòng trọ, chị H hỏi Tr xe mô tô 90B2 - X đâu thì Tr nói dối là đã mang xe đi sửa, rồi cắt điện thoại, không liên lạc với chị H và bỏ trốn khỏi địa phương.
Vật chứng thu giữ gồm: 01 xe mô tô Honda Vision BKS: 90B2 - X;
01 Giấy bán xe ghi ngày 14/4/2023 có chữ ký của Chu Hữu Tr bán xe cho anh Nguyễn Văn Ngh; 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, BKS: 90B2 - X. Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Nguyễn Thị Thu H 01 xe mô tô BKS: 90B2 - X kèm theo giấy tờ xe.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 35 ngày 21/6/2023 của Hội đồng định giá tài sản thị xã Duy Tiên kết luận: chiếc xe Honda Vision BKS: 90B2 - X trị giá 11.500.000đ.
Về trách nhiệm dân sự: Chị H đã nhận lại xe mô tô 90B2 - X nên không có yêu cầu, đề nghị gì. Anh Nguyễn Văn Ngh yêu cầu Tr phải bồi thường số tiền 16.000.000đ cho mình.
Cáo trạng số 92/CT-VKS ngày 10/10/2023, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Duy Tiên truy tố bị cáo về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 175; điểm i, s khoản 1 Điều 51; điểm i khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt Chu Hữu Tr từ 15 đến 18 tháng tù; miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo; về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Chu Hữu Tr phải bồi thường cho anh Nguyễn Văn Ngh số tiền: 16.000.000đ, lưu giữ trong hồ sơ 01 giấy mua bán xe giữa Chu Hữu Tr và anh Nguyễn Văn Ngh và tuyên án phí.
Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt ngoài ra không tranh luận gì; bị hại không có yêu cầu, tranh luận gì; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt không có tranh luận gì.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Duy Tiên và Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Duy Tiên và Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố, cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, HĐXX xác định các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.
[2] Về tội danh: Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người tham gia tố tụng khác cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:
Khoảng 16 giờ 00 phút, ngày 14/4/2023, tại phòng trọ ở tổ dân phố Vân K, phường Châu Gi, thị xã Duy T, tỉnh Hà Nam, Chu Hữu Tr mượn xe mô tô BKS:
90B2 - X của chị Nguyễn Thị Thu H đi bàn bạc công việc làm ăn. Sau đó, Tr nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe của chị H nên Tr điều khiển xe mô tô 90B2 - X đến cửa hàng xe máy bán cho anh Nguyễn Văn Ngh chiếc xe mô tô trên lấy 16.000.000đ sử dụng vào việc riêng. Sau đó, Tr cắt điện thoại, không liên lạc với chị H rồi bỏ trốn khỏi địa phương.
Hành vi nêu trên của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm tài sản của người khác được pháp luật bảo hộ, đồng thời ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo chưa có tiền án tiền sự; phạm tội đối với phụ nữ có thai nên phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại điểm i khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo ăn năn hối cải về hành vi phạm tội; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm i, s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự.
[4] Về hình phạt: Từ nhận định trên, thấy rằng hành vi của bị cáo lợi dụng lòng tin của người bị hại, thực hiện tội phạm trong một quá trình, phạm tội đối với phụ nữ có thai, sau khi phạm tội đến nay chưa khắc phục hậu quả vì thế cần cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Xét điều kiện bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
[5] Về hành vi khác: Đối với anh Nguyễn Văn Ngh đã mua chiếc xe mô tô 90B2 - X của Chu Hữu Tr nhưng anh Ngh không hứa hẹn, bàn bạc trước và không biết chiếc xe mô tô 90B2 - X do Tr phạm tội mà có do vậy Cơ quan điều tra không xem xét xử lý Nguyễn Văn Ngh là đúng.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Xét yêu cầu của anh Nguyễn Văn Ngh yêu cầu bị cáo phải bồi thường là có căn cứ theo đó cần buộc bị cáo phải trả cho anh Ngh số tiền đã bỏ ra mua xe mô tô là 16.000.000đ. Người bị hại đã nhận lại xe mô tô nay không yêu cầu gì nên không đặt ra giải quyết.
[7] Về vật chứng vụ án: Đối với 01 giấy mua bán xe giữa Chu Hữu Tr và anh Nguyễn Văn Ngh cần lưu giữ trong hồ sơ vụ án. Các vật chứng khác đã giải quyết xong tại giai đoạn điều tra nên không đặt ra giải quyết.
[8] Về án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.
[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, đương sự khác thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Từ nhận định trên:
QUYẾT ĐỊNH
1. Về hình sự: Căn cứ khoản 1 Điều 175; điểm i, s khoản 1 Điều 51; điểm i khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố bị cáo Chu Hữu Tr phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
Xử phạt: Chu Hữu Tr 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/8/2023.
2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng các Điều 46, 48 Bộ luật hình sự; các Điều 584, 585 Bộ luật dân sự: Buộc bị cáo Chu Hữu Tr phải bồi thường cho anh Nguyễn Văn Ngh số tiền: 16.000.000đ (Mười sáu triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Buộc bị cáo Chu Hữu Tr phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 800.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Án xử công khai sơ thẩm: Bị cáo; bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 118/2023/HS-ST
Số hiệu: | 118/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Duy Tiên - Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về