Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 117/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Đ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 117/2022/HS-ST NGÀY 24/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 102/2022/HSST ngày 26 tháng 4 năm 2022, quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 118/2022/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 6 năm 2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Lường Văn N (tên gọi khác: Không) - Sinh năm: 1985; Nơi sinh: Tại tỉnh Điện Biên; Nơi ĐKHKTT và Chỗ ở trước ngày bị bắt: Bản Y, xã M, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lường Văn C và bà Lường Thị Đ (đã chết); bị cáo sống như vợ chồng với chị Lò Thị H và có 02 người con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2014.

Tiền án; tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 08/01/2022, sau đó bị tạm giam cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên toà.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Cứ Thị L - Sinh năm: 1981; Địa chỉ: Bản L, xã M, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên. Hiện đang bị giam giam tại Trại tạm giam, Công an tỉnh Điện Biên. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 17 giờ ngày 08/01/2022, tại nhà của Cứ Thị L ở Bản L, xã M, thành phố Đ, tổ công tác công an thành phố Đ làm nhiệm vụ, phát hiện có người tụ tập, nghi phạm tội về ma tuý. Tổ công tác vào kiểm tra thì Cứ Thị L bỏ chạy lên rừng. Qua kiểm tra, phát hiện Lường Văn N đang sử dụng trái phép chất ma tuý trong phòng ngủ của L và thu giữ trên thành đầu giường cách vị trí N ngồi khoảng 15 cm có: 01 ống điếu tự chế; một chiếc bật lửa ga màu đỏ; 0,11 gam Methamphetamine để trên mảnh giấy bạc màu trắng N đang sử dụng dở;

01 gói nilon màu xanh chứa 0,09 gam Methamphetamine. Thu giữ trên nền buồng ngủ, cách chân phải N khoảng 10 cm có: 01 gói nilon màu xanh chứa 0,3 gam Heroine do N thả từ trong lòng bàn tay phải xuống. Thu giữ trên nền buồng ngủ, vị trí trước mặt của bị cáo N, cách vị trí N đang ngồi khoảng 30cm 02 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng.

N khai số Heroine bị thu giữ là do bị cáo vừa mua của Cứ Thị L với giá 100.000 đồng còn số Methamphetamine là do L cho bị cáo mà có, bị cáo tàng trữ số ma túy trên mục đích để bản thân sử dụng; Bật lửa ga, điếu tự chế và mảnh giấy bạc mà cơ quan công an thu giữ, N dùng để sử dụng ma túy; hai tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng thu giữ là tiền của bị cáo, bị cáo trả cho L để mua ma túy.

Tại Bản kết luận giám định số 184/GĐ-PC09 ngày 14/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên, kết luận: Khối lượng vật chứng M:

0,3gam; H1: 0,09 gam; H2: 0,11 gam. Mẫu chất bột màu trắng ký hiệu M gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine. Mẫu viên nén màu hồng ký hiệu H1 và mẫu cục chất bột màu hồng bị cháy xém đen ký hiệu H2 gửi giám định là chất ma túy: Loại Methamphetamine.

Tại Bản cáo trạng số: 52/CT-VKSTPĐBP ngày 25/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo Lường Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Cứ Thị L trình bày: Bà L thừa nhận là khoảng 17 giờ ngày 08/01/2022, N có đến nhà bà nhưng bà không bán, không cho N ma túy và cũng không biết, không cho bị cáo N sử dụng ma túy tại nhà mình vì khi N vào trong nhà bà thì bà đang ở bếp. Bà không biết vì lý do gì mà bị cáo N lại khai như vậy, lời khai của N là không đúng. Lý do khi thấy công an đến, bà bỏ chạy lên rừng là vì trong nhà bà L đang cất giấu ma túy nên bỏ chạy, 02 tờ tiền mệnh giá 50.000đ thu giữ trên nền buồng ngủ nhà bà L không phải của bà L, bà không biết là tiền của ai.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh Điện Biên giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố và khẳng định hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 0,27 gam Heroine; 0,14 gam Methamphetamine (là vật chứng còn lại sau giám định); 02 mảnh nilon màu xanh; 01 mảnh giấy bạc màu trắng; 01 (một) chiếc điếu tự chế bằng vỏ chai nhựa màu trắng; 01 (một) chiếc bật lửa ga màu đỏ, nhãn hiệu THONG NHAT đã qua sử dụng.

Trả lại cho bị cáo 100.000 đồng.

Về án phí: Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 2 Điều 136 của BLTTHS và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa, bị cáo nhất trí với Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát và lời luận tội của Đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi HĐXX nghị án: Bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ xác định: Hồi 17 giờ ngày 08/01/2022, tại buồng ngủ của Cứ Thị L ở bản Bản L, xã M, thành phố Đ, Lường Văn N có hành vi cất giấu trái phép 0,2 gam Methamphetamine và 0,3 gam Heroine, mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

[2] Về tính chất, mức độ, động cơ hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy đối với bản thân và cộng đồng cũng như nhận thức được chính sách pháp luật hình sự của nhà nước đối với những hành vi mua bán, tàng trữ ... trái phép chất ma túy nhưng để thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân, bị cáo đã bất chấp các quy định của pháp luật, cố ý thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội lớn, không những xâm phạm những quy định của nhà nước về chế độ quản lý, sử dụng các chất ma túy mà còn ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự trên địa bàn thành phố Đ. Do vậy, cần phải áp dụng một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Tại giai đoạn điều tra, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[5] Từ những phân tích nêu trên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ đã truy tố và kết luận bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 xử phạt bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù là có căn cứ, đúng pháp luật, bị cáo không bị oan.

[6] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự, bị cáo làm ruộng thu nhập không ổn định, không có tài sản có giá trị. Do vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[8] Các vấn đề khác:

Bị cáo khai mua ma túy của bà Cứ Thị L và được bà L đồng ý cho sử dụng ma túy tại nhà của bà L, tuy nhiên, ngoài lời khai của bị cáo thì cơ quan điều tra không có chứng cứ, chứng minh bà L bán ma túy cho N và cho N sử dụng chỗ ở của mình để sử dụng ma túy nên không có căn cứ xử lý trong vụ án.

Qua khám xét khẩn cấp nhà bà L phát hiện bà L có cất giấu ma túy tại nhà mình, cơ quan điều tra đã khởi tố bằng vụ án khác, do vậy HĐXX không xem xét trong vụ án.

[9] Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 0,27 gam Heroine; 0,14 gam Methamphetamine (là vật chứng còn lại sau giám định); 02 mảnh nilon màu xanh; 01 mảnh giấy bạc màu trắng; 01 (một) chiếc điếu tự chế bằng vỏ chai nhựa màu trắng; 01 (một) chiếc bật lửa ga màu đỏ, nhãn hiệu THONG NHAT đã qua sử dụng.

Đối với số tiền 100.000đ (gồm 02 tờ tiền mệnh giá 50.000đ) thu giữ dưới nền buồng ngủ của bà L, bị cáo khai là tiền của bị cáo trả cho L khi mua ma túy, bà L khai là không phải tiền của bà L và không có căn cứ chứng minh bà L bán ma túy cho N, do vậy số tiền 100.000đ là của bị cáo, ngoài lời khai của bị cáo là tiền để mua ma túy, thì không có chứng cứ nào chứng minh là tiền bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.

[10] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của BLTTHS và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự;

1. Tuyên bố bị cáo Lường Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Lường Văn N 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ (ngày 08/01/2022).

2. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 0,27 gam Heroine; 0,14 gam Methamphetamine (là vật chứng còn lại sau giám định); 02 mảnh nilon màu xanh; 01 mảnh giấy bạc màu trắng; 01 (một) chiếc điếu tự chế bằng vỏ chai nhựa màu trắng; 01 (một) chiếc bật lửa ga màu đỏ, nhãn hiệu THONG NHAT đã qua sử dụng.

Trả lại cho bị cáo Lường Văn N 100.000 đồng (bao gồm 01 (một) tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng có số seri NI17042180 và 01 (một) tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng có số seri: OQ16434640, tiền nhà nước Việt Nam đang lưu hành).

(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 28/4/2022 giữa cơ quan cảnh sát điều tra, Công an thành phố Đ và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đ).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của BLTTHS và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 24/6/2022).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

128
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 117/2022/HS-ST

Số hiệu:117/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về