Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 115/2022/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 115/2022/HSST NGÀY 27/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân huyện Thuận Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 126/2022/TLST-HS ngày 10/6/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 135/2022/QĐXXST-HS ngày 15/6/2022 đối với bị cáo:

Quàng Văn K, tên gọi khác: Không; sinh năm 1985 tại huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản N, xã T, huyện T, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Quàng Văn T, sinh năm 1959 và bà: Lò Thị T, sinh năm 1962; bị cáo có vợ là Lò Thị H, sinh năm 1986 và 02 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2019; không tiền án, có 01 tiền sự: Tại Quyết định số 169/QĐ-UBND ngày 23/9/2020 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Thôm Mòn ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, thời gian 03 tháng; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/3/2022 đến nay, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 14 giờ 00 phút ngày 31/3/2022, Tổ công tác Công an xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực bản N, xã T, huyện T, tại gác xép nhà ở của Quàng Văn K phát hiện Quàng Văn K có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy.

Thu giữ trước mặt chỗ Quàng Văn K đang ngồi vật chứng gồm: 01 (một) túi nilon màu xanh bên trong có chứa 26 (hai mươi sáu) viên nén màu hồng nghi là nghi là ma túy tổng hợp (theo Quàng Văn K khai nhận là ma túy tổng hợp); - 01 (một) bật lửa ga màu đỏ đã qua sử dụng (Quàng Văn K khai dùng để sử dụng ma túy); - 01 (một) mảnh giấy màu bạc đã bị đốt cháy dở có kích thước 02 x 04 cm (Quàng Văn K khai dùng để sử dụng ma túy).

Hi 18 giờ 20 phút cùng ngày, tại Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đã tiến hành bóc mở niêm phong cân tịnh 26 (hai mươi sáu) viên nén màu hồng nghi là ma túy tổng hợp có trong túi ni lon màu xanh thu giữ của Quàng Văn K được khối lượng 2,53 gam (Hai phẩy năm mươi ba gam) trích rút toàn bộ 26 (hai mươi sáu) viên nén màu hồng có khối lượng 2,53 gam làm mẫu gửi giám định chất ma túy ký hiệu K1.

Tại Kết luận giám định số: 576 ngày 01/4/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu K1 là ma túy, loại Methamphetammine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 2,53 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 2,53 gam”. Hoàn lại đối tượng giám định: Chất bột màu hồng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu K1, không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng K1 =1, 50 gam.

Quá trình điều tra Quàng Văn K đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như sau:

Khong 13 giờ 00 phút ngày 31/3/2022, Quàng Văn K đi bộ từ nhà ở tại bản N, xã T, huyện T, Sơn La đi vào bản L, xã T để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi K đi đến khu vực bản L, xã T thì gặp và mua được của một người đàn ông dân tộc Thái (K không biết tên và địa chỉ) đang đứng ở ven đường 01 (một) túi ni lon màu xanh bên trong có chứa 27 (Hai mươi bảy) viên nén mẫu hồng với giá 700.000₫ (Bảy trăm nghìn đồng). Sau khi mua được ma túy, K cầm túi ma túy vừa mua được cất vào túi quần đằng trước bên phải rồi đi bộ về nhà K để sử dụng. Khi về đến nhà, K lấy ra 01 viên nén màu hồng và lấy bật lửa ga màu đỏ và 01 (một) mảnh giấy màu bạc để sử dụng ma túy. Khi K vừa sử dụng ma túy xong thì có tổ công tác Công an xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu đến yêu cầu kiểm ma túy. Quá trình kiểm tra tổ công tác đã phát hiện 01 (một) túi ni lon màu xanh K đặt trước mặt chỗ K đang ngồi bên trong có chứa 26 (Hai mươi sáu) viên nén màu hồng nên tổ công tác đã tạm giữ tang vật, dẫn giải Quàng Văn K về Ủy ban nhân dân xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.

Do có hành vi nêu trên, tại Cáo trạng số 76/CT- VKS ngày 09 tháng 6 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu đã truy tố bị cáo Quàng Văn K về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Quàng Văn K đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân huyện Thuận Châu đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân huyện Thuận Châu giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Quàng Văn K phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Quàng Văn K từ 30 đến 36 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy: 1,50 gam Methamphetamine, một túi nilon màu xanh, một vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu; 01 chiếc bật lửa ga màu đỏ đã qua sử dụng, 01 mảnh giấy bạc cháy dở, 01 phong bì niêm phong gửi giám định đã bóc mở niêm phong.

Buộc bị cáo Quàng Văn K phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa, bị cáo Quàng Văn K thừa nhận hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, thực hiện đúng thủ tục tố tụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Ngày 31/3/2022 bị cáo Quàng Văn K đã có hành vi cất giữ trái phép 2,53 gam Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang tại nhà ở của Quàng Văn K tại bản N, xã T, huyện T, tỉnh Sơn La.

Tại phiên tòa bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với kết quả điều tra, phù hợp với: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 14 giờ 30 phút ngày 31/3/2022 tại Trụ sở Ủy ban nhân dân xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại vật chứng; Biên bản mở niêm phong và giao nhận đối tượng giám định; Kết luận giám định số: 576/KLMT ngày 01/4/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La; lời khai của người chứng kiến.

Từ các căn cứ trên có đủ cơ sở kết luận: Hành vi cất giữ trái phép 2,53 gam Methamphetamine của bị cáo Quàng Văn K, mục đích để sử dụng đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp nghiêm trọng, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương. Do đó cần có mức hình phạt nghiêm khắc nhằm răn đe đối với bị cáo, đảm bảo biện pháp giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi áp dụng hình phạt cần xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, có 01 tiền sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có ông nội là Quàng Văn Vinh được tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhất là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản, không có khả năng thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ: Quàng Văn K khai mua của một người đàn ông dân tộc Thái không quen biết ở khu vực bản L, xã T, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La vào ngày 31/3/2022 với số tiền 700.000đ. Quàng Văn K không biết họ tên, địa chỉ cụ thể của người đàn ông đó nên Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Thuận Châu không có căn cứ mở rộng điều tra vụ án.

[6] Vật chứng vụ án:

Đi với 1,50 gam Methamphetamine còn lại sau khi lấy mẫu gửi giám định là chất ma túy, thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy cùng một túi nilon màu xanh, một vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu;

01 chiếc bật lửa ga màu đỏ đã qua sử dụng, 01 mảnh giấy bạc cháy dở, 01 phong bì niêm phong gửi giám định đã bóc mở niêm phong là công cụ phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội và không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a,c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7] Về án phí: Buộc bị cáo Quàng Văn K phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm, căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Quàng Văn K phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Quàng Văn K 36 (ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 31/3/2022).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ Luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tch thu tiêu hủy: - Một phong bì Công an huyện Thuận Châu niêm phong, mặt trước ghi: Vật chứng nhập kho vụ Quàng Văn K - TTTPCMT, bắt ngày 31/3/2022. Mặt sau phong bì, dán giấy niêm phong của Công an tỉnh Sơn La số: 053908 đè lên các mép dán của phong bì và trên giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia niêm phong, người bị bắt và 02 hình dấu đỏ của cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu. Bên trong có: Một túi nilon màu xanh + Một vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu; - Một phong bì niêm phong có viền màu xanh đỏ, mặt trước ghi: 01 chiếc bật lửa ga màu đỏ đã qua sử dụng + 01 mảnh giấy bạc cháy dở KT 02 x 04cm (K dùng để sử dụng ma tuý). Mặt sau phong bì, có đầy đủ chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia niêm phong, người bị bắt. Bên trong có: 01 chiếc bật lửa ga màu đỏ đã qua sử dụng + 01 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy dở có kích thước 02 x 04cm; - Một phong bì màu trắng niêm phong, mặt trước ghi: Vật chứng vụ: Quàng Văn K - TTTPCMT, xảy ra ngày 31/3/2022, gồm có: 01 phong bì niêm phong gửi giám định đã bóc mở niêm phong + chất bột màu hồng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu K1, không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng 1,50 gam. Mặt sau phong bì, dán giấy niêm phong của Công an tỉnh Sơn La số:

099015 đè lên các mép dán của phong bì, trên giấy niêm phong có 03 dòng chữ ký kèm 03 dòng họ tên và 02 hình dấu đỏ của phòng KTHS Công an tỉnh Sơn La.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/6/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Thuận Châu và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuận Châu).

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Quàng Văn K phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo Quàng Văn K được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

64
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 115/2022/HSST

Số hiệu:115/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về