TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 114/2022/HS-ST NGÀY 30/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 30 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 98/2022/TLST-HS ngày 01/6/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 101/2022/QĐXXST-HS ngày 17/6/2022 đối với bị cáo:
Họ và tên: Đặng Văn Đ, sinh năm 1981, tại tỉnh Đồng Tháp; Nơi ĐKHKTT: Khóm A, phường An L, thành phố Hồng N, tỉnh Đồng Tháp; Trình độ học vấn: 03/12; Nghề nghiệp: Thợ hồ; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đặng Văn M (chết) và bà Trần Thị H; Vợ tên Nguyễn Thị Mỹ D; có 01 con, sinh năm 2006; Tiền án: Ngày 21/11/2018, bị Tòa án nhân dân thành phố T xử phạt 02 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo Bản án số 304/2018/HSST. Ngày 03/7/2020, Đ chấp hành xong hình phạt tù; Tiền sự: Không. Bị bắt tạm giữ từ ngày 15/10/2021 và tạm giam cho đến nay. Có mặt.
Người làm chứng: Phạm Xuân T. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 10 giờ 00 ngày 15/10/2021, trong lúc Đặng Văn Đ đang ở phòng trọ số 02 của Khu nhà trọ Hoàng A, địa chỉ tại khu phố A, phường Phú H, thành phố T, tỉnh Bình Dương thì Đ nảy sinh ý định mua ma túy đá về để sử dụng nên Đ sử dụng điện thoại di động hiệu VSMART, màu đen, có gắn sim số thuê bao 0908332801 gọi đến số thuê bao 0345536308 của người nam tên P (hiện chưa xác định rõ họ tên và địa chỉ cư trú) để hỏi mua ma túy đá với số tiền 2.800.000 (Hai triệu tám trăm nghìn) đồng thì P đồng ý. Tiếp đó, P đến phòng trọ đưa cho Đ 01 (một) túi vải bên trong đựng 01 (một) gói nylon hàn kín chứa ma túy đá và 01 (một) túi nylon miệng kéo dính đựng 20 (hai mươi) gói nylon hàn kín chứa ma túy đá thì Đ đưa cho P số tiền 2.800.000 (Hai triệu tám trăm nghìn) đồng. Sau đó, Đ cất giấu túi vải có chứa ma túy đá trong phòng trọ của Đ.
Khoảng 13 giờ 00 ngày 15/10/2021, nhận được tin báo của quần chúng nhân dân về việc tại phòng trọ số 02 của Khu nhà trọ Hoàng A, địa chỉ tại khu phố A, phường Phú, thành phố T, tỉnh Bình Dương do Đặng Văn Đ thuê để ở có dấu hiệu tàng trữ trái phép chất ma túy nên Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế và Ma túy Công an thành phố T chủ trì, phối hợp với Công an phường Phú H tiến hành theo dõi, giám sát Đ. Đến khoảng 13 giờ 40 phút ngày 15/10/2021, lực lượng Công an tiến hành kiểm tra phòng trọ số 02 thì thấy có Đ và anh Phạm Xuân T đang ngồi trong phòng trọ. Qua kiểm tra, lực lượng Công an phát hiện Đ cất giấu bộ dụng cụ sử dụng ma túy thì Đ tự khai nhận Đ đang cất giấu chất ma túy đá (Methamphetamine) trong túi vải để trên nền nhà bên cạnh chỗ Đ ngồi nên lực lượng Công an kiểm tra túi vải thì phát hiện bên trong có 01 (một) gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng và 01 (một) túi nylon miệng kéo dính đựng 20 (hai mươi) gói nylon hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng; đồng thời Đ xác định số ma túy trên do Đ mua về để sử dụng và việc Đ mua ma túy rồi cất giấu trong phòng trọ thì anh Trường không biết. Do đó, lực lượng Công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Đặng Văn Đ về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy và thu giữ số vật chứng, gồm: 01 (một) gói nylon hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng và 01 (một) túi nylon miệng kéo dính đựng 20 (hai mươi) gói nylon hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng (đã được niêm phong theo quy định); 01 (một) điện thoại di động hiệu VSMART, màu đen, sim số 0908332801, số IMEI: 359869100029359, 359869100029367; 01 (một) túi vải và 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy, gồm: 01 (một) bình nhựa; 01 (một) ống hút nhựa; 01 (một) ống thủy tinh một đầu bầu dục.
Căn cứ Bản kết luận giám định số 690/MT-PC09 ngày 22/10/2021 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng gửi giám định là ma túy, có khối lượng M1 = 4,2352 gam và M2 = 2,9478 gam, loại Methamphetamine. Khối lượng hoàn lại sau giám định đối với M1 = 4,0446 gam và M2 = 2,8720 gam, loại Methamphetamine (đã được niêm phong).
Đối với số ma túy hoàn lại sau giám định nêu trên, 01 (một) túi vải và 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy, gồm: 01 (một) bình nhựa, 01 (một) ống hút nhựa, 01 (một) ống thủy tinh một đầu bầu dục, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T ra Quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T để đề nghị Tòa án tịch thu, tiêu hủy.
Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu VSMART, màu đen, sim số 0908332801, số Imei 1: 359869100029359, số Imei 2: 359869100029367, quá trình điều tra xác định điện thoại trên là tài sản của Đặng Văn Đ và Đ sử dụng để liên lạc mua ma túy về sử dụng nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố T ra Quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T để đề nghị Tòa án xử lý theo quy định của pháp luật.
Đối với người nam tên P có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Đặng Văn Đ, quá trình điều tra, Đ khai nhận không biết rõ nhân thân, lai lịch của P. Ngày 02/12/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã có Công văn số 1482/CV-CQ.CSĐT đề nghị Ban Thanh tra - Kiểm toán Công ty Viễn thông Viettel cung cấp thông tin về chủ số thuê bao 0345536308 mà P sử dụng nhưng đến nay chưa có kết quả trả lời. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T sẽ tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ và xử lý sau khi có đủ căn cứ.
Cáo trạng số 110/CT-VKS-HS ngày 30/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T truy tố bị cáo Đặng Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T trong phần tranh luận, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Đặng Văn Đ mức hình phạt từ 06 năm 06 tháng tù đến 07 năm 06 tháng tù.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy số ma túy hoàn lại sau giám định có khối lượng M1 = 4,0446 gam và M2 = 2,8720 gam, loại Methamphetamine; 01 (một) túi vải và 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy, gồm: 01 (một) bình nhựa; 01 (một) ống hút nhựa; 01 (một) ống thủy tinh một đầu bầu dục. Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu VSMART, màu đen, thu giữ của Đặng Văn Đ đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến tranh luận. Trong lời nói sau cùng, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là phù hợp với quy định của pháp luật.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Đặng Văn Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản hỏi cung bị can, biên bản niêm phong, kết luận giám định cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 13 giờ 40 phút ngày 15/10/2021, tại phòng trọ số 02 của Khu nhà trọ Hoàng Anh, địa chỉ tại khu phố 8, phường Phú H, thành phố T, tỉnh Bình Dương, Đặng Văn Đ bị bắt quả tang khi có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy có tổng khối lượng là 7,183 gam, loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng, đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây tác hại lớn đến nhiều mặt của đời sống xã hội, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Ma túy không chỉ gây tác hại đến sức khỏe, nhân cách con người, mà còn cản trở sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Ma túy cũng chính là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác. Bị cáo biết tác hại của ma túy và biết hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Nhưng vì nhu cầu của bản thân nên bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời nhằm răn đe và phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.
[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Đặng Văn Đ đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý nên thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Căn cứ vào nhân thân cũng như tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ, xét mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là phù hợp.
[6] Về xử lý vật chứng: Đối với số ma túy hoàn lại sau giám định có khối lượng M1 = 4,0446 gam và M2 = là 2,8720 gam, loại Methamphetamine là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành; 01 (một) túi vải và 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy, gồm: 01 (một) bình nhựa; 01 (một) ống hút nhựa; 01 (một) ống thủy tinh một đầu bầu dục là công cụ, phương tiện thực hiện tội phạm nên căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu VSMART, màu đen, sim số 0908332801, số Imei 1: 359869100029359, số Imei 2: 359869100029367, quá trình điều tra xác định điện thoại trên là tài sản của Đặng Văn Đ, không liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Đ nên căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự trả lại cho bị cáo Đ.
[7] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
Căn cứ các Điều 106, 136, 260, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên bố bị cáo Đặng Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
1/ Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Đặng Văn Đ 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/10/2021.
2/ Về xử lý vật chứng:
2.1/ Tịch thu tiêu hủy:
- 01 (một) bì thư niêm phong có chữ ký người bị bắt Đặng Văn Đ, cán bộ niêm phong Nguyễn Thành T và đóng dấu niêm phong bằng hình dấu tròn đỏ của Công an phường Phú H, thành phố T, tỉnh Bình Dương, đóng dấu niêm phong bằng dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương. Theo Kết luận giám định số 690/MT-PC09 ngày 22/10/2021 và biên bản đóng gói niêm phong và giao, nhận đối tượng giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong gồm có:
+ 01 (một) gói nylon chứa chất tinh thể màu trắng là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng hoàn lại sau giám định là 4,0446 gam (M1).
+ 01 (một) túi nylon miệng kéo dính đựng 20 (hai mươi) gói nylon chứa chất tinh thể màu trắng là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng hoàn lại sau giám định là 2,8720 gam (M2).
- 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy: 01 (một) bình nhựa; 01 (một) ống hút nhựa; 01 (một) ống thủy tinh có một đầu hình bầu dục.
- 01 (một) túi vải.
2.2/ Trả lại cho Đặng Văn 01 (một) điện thoại di động hiệu VSMART, màu đen, số Imei 1: 359869100029359, số Imei 2: 359869100029367.
(Thể hiện tại biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 111.22 ngày 20/5/2022 giữa Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T và Công an thành phố T).
3/ Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4/ Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 114/2022/HS-ST
Số hiệu: | 114/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/06/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về