Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 114/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 114/2022/HS-ST NGÀY 14/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyên Mộc Châu , tỉnh Sơn La, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 118/2022/TLST - HS ngày 29 tháng 6 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 120/2021/QĐXXST - HS ngày 06 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Trịnh Hữu T, sinh năm 1980 tại huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Tiểu khu X, thị trấn Mộc Châu, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; trình độ văn hoá: Lớp 10/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Trịnh Hữu B, con bà Vũ Thị L (Đều đã chết); chưa có vợ; tiền sự: Không, có 03 tiền án:

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 324/HSST/2009 ngày 24/9/2009 Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 12 tháng về tội Trộm cắp tài sản, theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, chấp hành xong hình phạt ngày 24/10/2010; chấp hành xong án phí ngày 15/12/2009.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 95/HSST/2011 ngày 17/3/2011 Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu xử phạt 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, theo khoản 1 Điều 138; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự, chấp hành xong hình phạt ngày 03/01/2013; đã chấp hành xong án phí và trách nhiệm bồi thường dân sự.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 79/HSST/2015 ngày 12/5/2015 Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu xử phạt 07 năm 06 tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo điểm p khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự, chấp hành xong hình phạt ngày 27/01/2021; chấp hành xong án phí ngày 25/6/2015 (Chưa được xóa án tích).

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/4/2022 cho đến nay, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bản thân nghiện chất ma túy, khoảng 22 giờ 55 phút, ngày 29/4/2022 Trịnh Hữu T thuê xe taxi biển kiểm soát 26A – 058.18 của Nguyễn Ngọc L đến bản Cóc, xã Đông Sang, huyện Mộc Châu, đến nơi T bảo Lương dừng xe chờ, sau đó T đi bộ đến nhà một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết, qua trao đổi T mua được 01 gói Heroine với giá 200.000 đồng, có được ma túy T cất giấu trong người rồi đi đến chỗ taxi đang chờ, T bảo Lương chở đi về, khi đến bản Tự Nhiên, xã Đông Sang, huyện Mộc Châu thì gặp tổ công tác Công an xã Đông Sang làm nhiệm vụ kiểm tra, phát hiện thu giữ của Trịnh Xuân T gồm: 01 gói nilon màu xanh bên trong đựng chất bột màu trắng nghi là Heroine.

Ngày 30/4/2022, cơ quan điều tra Công an huyện Mộc Châu tiến hành xác định khối lượng số cục chất bột màu trắng nghi là Heroine thu giữ Trịnh Hữu T được 0,23 gam, lấy toàn bộ 0,23 gam làm mẫu gửi trưng cầu giám định, mẫu có ký hiệu T.

Tại kết luận giám định số 752 ngày 02/5/2022 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu T là ma túy; loại Heroine, khối lượng mẫu gửi giám định là 0,23 gam; tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,23 gam, loại Heroine.

Bản cáo trạng số 84/CT-VKS ngày 27 tháng 6 năm 2022 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La truy tố Trịnh Hữu T về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trịnh Hữu T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trịnh Hữu T từ 05 năm 06 tháng tù đến 06 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo.

- Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2; điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì bên trong đựng 01 mảnh nilon màu xanh cùng phong bì niêm phong ban đầu; 01 phong bì bên trong bên trong đựng 01 phong bì niêm phong gửi giám định đã bóc mở niêm phong và 0,10 gam Heroine; 01 phong bì bên trong dựng test thử ma túy của Trịnh Hữu T, ngày 30/4/2022, kết quả: Dương tính; 01 phong bì bên trong đựng test thử ma túy của Nguyễn Ngọc Lương, ngày 30/4/2022, kết quả: Âm tính.

Trả lại cho bị cáo Trịnh Hữu T 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A37 màu vàng đồng bên trong lắp sim số 0348.378.352.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Sau khi đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm xử lý các vấn đề của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát. Bị cáo có lời nói sau cùng xin được giảm nhẹ mức hình phạt và không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1 Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Công an xã Động Sang, cơ quan điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

2 Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Trịnh Hữu T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra, số ma túy bị thu giữ là Heroine, có tổng khối lượng 0,23 gam, nguồn gốc do bị cáo mua của người đàn ông dân tộc Mông không quen biết mục đích để sử dụng cho bản thân. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với hành vi bị cáo đã thực hiện.

Xét lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang do tổ công tác Công an xã Đông Sang, huyện Mộc Châu lập hồi 00 giờ 20 phút, ngày 30/4/2022; biên bản thu giữ vật chứng, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định, bản kết luận giám định số 752 ngày 02/5/2022 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận là chất ma túy, loại Heroine. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ của cơ quan điều tra đã thu thập được trong hồ sơ.

3 Khung hình phạt áp dụng: Xét thấy tại bản án số 79/2015/HSST ngày 12 tháng 5 năm 2015 của Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La áp dụng điểm p “Tái phạm nguy hiểm” khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự, xử phạt Trịnh Hữu T 07 năm, 06 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, đến thời điểm phạm tội mới chưa được xóa án tích. Xác định lần phạm tội này là tình tiết định khung hình phạt do vậy hành vi của bị cáo Trịnh Hữu T tàng trữ 0,23 gam Heroine đã vi phạm điểm o “Tái phạm nguy hiểm”, khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự, có mức hình phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có tiền án chưa được xóa án tích nhưng xác định là tình tiết định khung nên không áp dụng là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo T khẩn khai báo, bị cáo có ông ngoại là ông Vũ Văn Chuân được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Từ những căn cứ trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo trở T người làm ăn lương thiện, có ích cho xã hội, mới đảm bảo tính chất nghiêm minh của pháp luật, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

4 Vê hinh phat bô sung : Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy: Quá trình điều tra và xét hỏi công khai tại phiên tòa thấy rằng bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo là phù hợp.

5 Về vật chứng:

Đối với: 01 phong bì còn nguyên niêm phong, bên trong đựng 01 mảnh nilon màu xanh và phong bì niêm phong ban đầu; 01 phong bì còn nguyên niêm phong bên trong đựng Test ma túy đối với Trịnh Hữu T; 01 phong bì còn nguyên niêm phong bên trong đựng: 01 phong bì niêm phong gửi giám định ký hiệu T có khối lượng 0,10 gam; 01 phong bì còn nguyên niêm phong bên trong đựng Test ma túy đối với Nguyễn Ngọc Lương. Xét là vật bị Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành cùng vật không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A37 thu giữ của bị cáo, xét không liên quan đến hành vi phạm tội, cần tuyên trả lại cho bị cáo.

6 Về các vấn đề khác:

Đối với người đàn ông dân tộc Mông đã bán ma túy cho bị cáo như bị cáo đã khai, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ, do đó không có căn cứ điều tra làm rõ, vì vậy buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về toàn bộ số ma túy bị thu giữ.

7 Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[8] Thơi han tam giam của bi cao còn dưới 45 ngày do đó Hội đồng xét xử ra Quyết định tạm giam 45 ngày để đảm bảo thi hành án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Trịnh Hữu T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo Trịnh Hữu T 06 (Sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/4/2022.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2; điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì còn nguyên niêm phong, bên trong đựng 01 mảnh nilon màu xanh và phong bì niêm phong ban đầu; 01 phong bì còn nguyên niêm phong bên trong đựng Test ma túy đối với Trịnh Hữu T; 01 phong bì còn nguyên niêm phong bên trong đựng: 01 phong bì niêm phong gửi giám định ký hiệu T có khối lượng 0,10 gam; 01 phong bì còn nguyên niêm phong bên trong đựng Test ma túy đối với Nguyễn Ngọc Lương.

Trả lại cho bị cáo Trịnh Hữu T 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A37 màu vàng đồng bên trong lắp sim số 0348.378.352 được đựng trong phong bì niêm phong.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016 UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trịnh Hữu T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

128
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 114/2022/HS-ST

Số hiệu:114/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về