Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 113/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ G, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 113/2022/HS-ST NGÀY 12/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 12 tháng 04 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 40/2022/TLST-HS ngày 10 tháng 03 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 85/2022/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 03 năm 2022, đối với bị cáo:

Trần Gia V, sinh ngày 11/11/1998. Tại H, tỉnh Kiên Giang; Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở hiện nay: Số Ấp Đ, xã Tân Hội, huyện H, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Thành C và bà Trương Thị Lý H; Anh chị em ruột: Không. Vợ, con: Chưa.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 28/12/2021 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

- Người chứng kiến:

+ Phạm Quốc T, sinh năm 1980 (Vắng mặt) Địa chỉ: Số Tổ 24, ấp T1, xã T2, thành phố G, tỉnh Kiên Giang.

+ Trƣơng Hoài H1, sinh năm 1988 (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp H, xã T2, thành phố G, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Bản thân Trần Gia V, người không nghề nghiệp, nghiện ma túy từ cuối năm 2020 (loại ma túy đá). Nguồn ma túy V có được là V mua của nhiều người (không rỏ lai lịch) do người tên Tèo (không rỏ lai lịch) giới thiệu. Vào 12 giờ 30 phút ngày 28/12/2021, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên V lấy bịch ma túy được Tèo cho trước đó bỏ vào túi quần vải (Bên trái, phía trước) rồi diều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Sonic, màu trắng đỏ, biển kiểm soát 68T1-822.85 tìm nơi sử dụng. Khi đi đến khu vực đường 30/4, tổ 2, ấp Sóc Cung, xã T2, thành phố G thì tổ công tác thuộc Đoàn đặc nhiệm phòng chống tôi phạm ma túy số 4, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển phối hợp với Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố G và công an xã T2 bắt quả tang cùng vật chứng. Tại Cơ quan điều tra bị cáo V khai nhận mục đích tàng trữ ma túy là để sử dụng, không có mục đích nào khác. Đến ngày 06/01/2022, bị cáo V bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố G khởi tố và ra quyết định tạm giam để điều tra.

Bị cáo Trần Gia V đã khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo như đã nêu trên.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Trần Gia V đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

* Vật chứng của vụ án: 01 (Một) bịch nylon màu trắng, có rãnh gài một cạnh viền xanh, bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng không đồng nhất.

01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, số Emei:

861728036518508, đã qua sử dụng.

01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Sonic, màu trắng đỏ, biển kiểm soát 68T1-822.85, đã qua sử dụng.

* Tại bản kết luận giám định số 1187/KL-KTHS ngày 03 tháng 01 năm 2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang xác định: Các hạt chất rắn màu trắng, dạng tinh thể, không đồng nhất chứa trong 01 (Một) bịch nylon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,3488 gam.

(Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II STT 323 Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ).

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang nêu trên.

* Theo bản cáo trạng số: 59/CT-VKSRG ngày 08/03/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang truy tố bị cáo Trần Gia V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo phù hợp với bản kết luận điều tra của Cơ quan điều tra Công an thành phố G và bản cáo trạng truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố G Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Gia V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

- Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Trần Gia V mức án từ 01 (Một) năm đến 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù.

- Về vật chứng của vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên: Tịch thu, tiêu hủy 01 (Một) phong bì niêm phong bên ngoài ghi: Niêm phong mẫu vật, vụ số: 1187/2021 ngày 05/01/2022 có chữ ký của của giám định viên Nguyễn Hoàng Nam và người chứng kiến Phạm Huỳnh Thanh Long.

Trả cho bị cáo 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, số Emei: 861728036518508, đã qua sử dụng và 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Sonic, màu trắng đỏ, biển kiểm soát 68T1-822.85, đã qua sử dụng, do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố G, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố G, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hội đồng xét xử xét thấy, tại phiên toà hôm nay bị cáo Trần Gia V đã khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu; lời nhận tội trên phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, của những người tham gia tố tụng và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Vào lúc 12 giờ 30 phút ngày 28/12/2021, do có nhu cầu sử dụng ma túy, bị cáo V đã lấy 01(Một) bịch ma túy được Tèo cho trước đó bỏ vào túi quần bên trái, phía trước rồi điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Sonic, biển kiểm soát 68T1-822.85 tìm nơi sử dụng. Khi đi đến khu vực đường 30/4, tổ 2, ấp Sóc Cung, xã T2, thành phố G thì bị lực lượng cơ quan Công an kiểm tra bắt quả tang cùng vật chứng (Qua giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine có tổng khối lượng là 0,3488 gam).

Từ những chứng cứ đã nêu trên, có đủ cơ sở để kết luận hành vi của bị cáo Trần Gia V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như kết luận của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố G là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xét về tính chất mức độ phạm tội của bị cáo xảy ra rất nguy hiểm cho xã hội, bị cáo thực hiện tội phạm có ý thức và có năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bản thân bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật nhưng do xuất phát từ việc nghiện ma túy và muốn có ma túy sử dụng mà bị cáo đã bất chấp lao vào con đường phạm tội, hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về trật tự quản lý các chất ma túy, làm ảnh hưởng đến sự ổn định tình hình an ninh trật tự tại địa phương và là điều kiện để làm phát sinh tội phạm khác. Qua xem xét, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Hội đồng xét xử thống nhất xử phạt bị cáo mức án tương xứng bằng hình phạt tù có thời hạn, giam giữ bị cáo trong thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành một công dân tốt, sống có ích cho xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng:

Tịch thu, tiêu hủy 01 (Một) phong bì niêm phong bên ngoài ghi: Niêm phong mẫu vật, vụ số: 1187/2021 ngày 05/01/2022 có chữ ký của của giám định viên Nguyễn Hoàng Nam và người chứng kiến Phạm Huỳnh Thanh Long.

Trả cho bị cáo 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, số Emei: 861728036518508, đã qua sử dụng và 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Sonic, màu trắng đỏ, biển kiểm soát 68T1-822.85, đã qua sử dụng, do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo. (Đã trả xong) [7] Xét đề nghị của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố G đề nghị tại bản luận tội đối với bị cáo cũng như ý kiến tranh luận tại phiên tòa là phù hợp nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Đối với người tên Tèo đã cho ma túy bị cáo V, hiện nay chưa xác định được tên thật, địa chỉ nên đề nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố G, tỉnh Kiên Giang tiếp tục điều tra, làm rõ khi nào đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Trần Gia V, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: Bị cáo Trần Gia V mức án 01(Một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính kể từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 28/12/2021.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên: Tịch thu, tiêu hủy 01 (Một) phong bì niêm phong bên ngoài ghi: Niêm phong mẫu vật, vụ số: 1187/2021 ngày 05/01/2022 có chữ ký của của giám định viên Nguyễn Hoàng Nam và người chứng kiến Phạm Huỳnh Thanh Long.

(Theo quyết định chuyển vật chứng số 37/QĐ-VKS ngày 08/03/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang).

Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 12/04/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

137
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 113/2022/HS-ST

Số hiệu:113/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về