Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 113/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 113/2021/HSST NGÀY 27/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 7 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 119/2021/TLST-HS ngày 09 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 113/2021/QĐXXST- HS ngày 14 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Mạnh T- Sinh năm 1984, tại huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La; Nơi ĐKHKTT và nơi ở: Bản T, xã C, huyện S, Sơn La; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa: 9/12; Chức vụ, đảng phái: Không; Con ông Nguyễn Văn H, con bà Trần Thị Đ; Vợ Cà Thị N và 02 con (con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2019); Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, giam từ ngày 16/4/2021 cho đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 19 giờ 30 phút ngày 16/4/2021 Tổ công tác Công an huyện Sông Mã phối hợp với Công an xã Chiềng Khương làm nhiệm vụ tại bản Thống Nhất, xã Chiềng Khương, huyện Sông Mã, thấy một người đàn ông đang điều khiển xe mô tô hướng bản Tiên Sơn - bản Thống Nhất có biểu hiện nghi vấn, tổ công tác đã yêu cầu dừng xe để kiểm tra, người đàn ông khai nhận là Nguyễn Mạnh T. Qua kiểm tra đã thu giữ tại túi quần của Tám 01 gói nilon bên trong có chứa 03 viên nén màu hồng và 01 gói giấy màu trắng bên trong chứa chất bột liên kết màu trắng (T khai nhận là Hồng phiến và Heroine). Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ và niêm phong vật chứng, ngoài ra còn tạm giữ 01 xe mô tô và 01 điện thoại di động.

Ngày 17/4/2021 tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã, tiến hành mở niêm phong, xác định khối lượng, trích mẫu giám định. Kết quả: Số chất bột màu trắng có khối lượng là 0,02gam, đã sử dụng toàn bộ làm mẫu giám định, ký hiệu N1. 03 viên nén màu hồng có khối lượng 0,27 gam, đã trích 01 viên có khối lượng 0,09 gam làm mẫu giám định ký hiệu N2, vật chứng còn lại là 02 viên có khối lượng 0,18gam ký hiệu N3.

Kết luận giám định số 820 ngày 20/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận:

"- Mẫu gửi giám định ký hiệu N1 không phải là ma tuý là, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,02 gam.

- Mẫu gửi giám định ký hiệu N2 là ma tuý, loại Methamphetamine, khối lượng mẫu gửi giám định là 0,09gam.

- Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,27 gam, loại Methamphetamine".

Quá trình điều tra Nguyễn Mạnh T khai nhận: Khoảng 08 giờ ngày 15/4/2021 T từ nhà điều khiển xe mô tô mang theo số tiền 200.000đ đến khu vực đường biên giới Việt Nam - Lào thuộc bản Là, xã Chiềng Khương, huyện Sông Mã với mục đích tìm mua ma tuý về để sử dụng. Khi đến bản Là T gặp một người đàn ông dân tộc Thái không quen biết đang đi bộ ngược chiều, T dừng lại hỏi và mua được của người đàn ông này 04 viên Hồng phiến và 01 gói chất bột màu trắng. Sau khi mua được ma tuý, T cất dấu vào túi quần rồi điều khiển xe đi về, khi đến vườn nhãn gần nhà T đi vào vườn nhãn lấy 01 viên Hồng phiến ra sử dụng, số ma tuý còn lại T gói lại rồi cất vào túi quần. Đến khoảng 19 giờ ngày 16/4/2021 T điều khiển xe đi đến bản Thống Nhất để bắt ve sầu thì bị Công an phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Tại bản Cáo trạng số 83/CT-VKS ngày 08 tháng 7 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử Nguyễn Mạnh T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà kiểm sát viên thực hành quyền công tố phát biểu quan điểm luận tội, sau khi phân tích nội dung vụ án, các tài liệu chứng cứ đã thu thập trong quá trình điều tra cũng như diễn biến tại phiên tòa, vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Mạnh T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 15 - 20 tháng tù. Miễn hình phạt bổ xung cho bị cáo. Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại và vật chứng liên quan. Trả lại cho bị cáo điện thoại di động. Buộc bị cáo chịu án phí hình sự. Tuyên quyền kháng cáo cho bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi của mình đã vi phạm pháp luật, nhất trí với nội dung Cáo trạng và không có ý kiến tranh luận với Kiểm sát viên. Khi được nói lời sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và người có quyền lợi liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định pháp luật.

[2] Về tình tiết định tội, định khung hình phạt: Tại phiên toà bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi, vẫn giữ nguyên lời khai như đã khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án và hoàn toàn nhất trí với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc đã thực hiện.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập ngày 16/4/2021; Vật chứng bị thu giữ; Kết luận giám định số 820 ngày 20/4/2021; Các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung đối với bị cáo về thời gian, địa điểm, diễn biến việc thực hiện hành vi phạm tội; Biên bản ghi lời khai của người chứng kiến sự việc và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi mua ma túy với mục đích để sử dụng, sau đó bị phát hiện bắt quả tang, khối lượng ma túy bị thu giữ là 0,27 gam, loại Methamphetamine của bị cáo Nguyễn Mạnh T đã phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy - Tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố và Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xét xử bị cáo là chính xác, đúng người, đúng tội, đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật, không oan sai cho bị cáo.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hại cho xã hội; đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an ở địa phương, gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội, ảnh hưởng sức khỏe con người, đồng thời là nguyên nhân dẫn đến các tội phạm khác.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải - Là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Cần căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ, khối lượng ma túy bị thu giữ để quyết định một mức hình phạt phù hợp, nhằm trừng phạt, cải tạo, giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật, răn đe, phòng ngừa và thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tệ nạn ma tuý tại địa phương.

[5] Về hình phạt bổ sung: Gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: Đối với số ma tuý và vật chứng liên quan cần tịch thu tiêu huỷ. Đối với chiếc điện thoại di động do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, nên cần trả lại cho bị cáo.

Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 26K9-7435 tạm giữ trong vụ án đã xác định được thuộc sở hữu của anh Cầm Văn L (anh vợ của bị cáo), do anh L đi làm ăn xa nên để tại gia đình bị cáo, bị cáo sử dụng xe làm phương tiện phạm tội anh L không biết, cơ quan điều tra đã trả lại anh L là đảm bảo theo quy định.

[7] Về vấn đề khác liên quan đến vụ án: Đối với người đàn ông dân tộc Thái, bị cáo khai nhận bán ma túy cho bị cáo, quá trình điều tra do bị cáo không biết tên, tuổi cụ thể của người này, nên không có căn cứ để xác minh mở rộng vụ án.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Căn cứ Điều 329 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Mạnh T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh T 15 (mười lăm) tháng tù - Thời hạn thụ hình tính từ ngày 16/4/2021.

- Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

- Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo thi hành án.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự;

điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy chất ma túy còn lại sau giám định và các vật chứng liên quan bao gồm:

+ 0,18 gam Methamphetamine.

+ 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở.

+ 01 mảnh nilon màu hồng.

+ 01 mảnh giấy màu trắng.

(Các vật chứng được đựng trong phong bì niêm phong, giấy dán niêm phong có mã số 046157).

- Trả lại cho bị cáo 01 chiếc điện thoại di động.

Theo Quyết định chuyển vật chứng số 82/QĐ - VKSSM ngày 08/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã và Biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/7/2021 giữa Công an huyện Sông Mã và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 21, 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, nộp, miễn, giảm, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo nộp án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 27/7/2021./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 113/2021/HSST

Số hiệu:113/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về