Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 113/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM

 BẢN ÁN 113/2021/HS-ST NGÀY 24/08/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 106/2021/TLHS-HS ngày 22 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 107/2021/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 8 năm 2021, đối với bị cáo:

Lê Văn T, sinh năm 1983 tại Hà Nam; tên gọi khác: không; nơi cư trú: Tiểu khu K, thị trấn KK, huyện T, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn M (đã chết) và bà Trần Thị Đ; vợ: Nguyễn Thị L; Con: Có 03 con, lớn sinh năm 2007, nhỏ sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/6/2021, chuyển tạm giam từ ngày 22/6/2021đến nay; có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Nguyễn Tiến Đ, sinh năm 1994; địa chỉ cư trú: Tiểu khu K, thị trấn KK, huyện T, tỉnh Hà Nam; vắng mặt

* Người làm chứng: Anh Bùi Xuân T, sinh năm 1981; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 16/6/2021, Lê Văn T điều khiển xe mô tô BKS 90F9-4595 đi từ nhà đến khu vực chợ Mỏ thuộc tổ dân phố N, phường C, thành phố P thì gặp một người đàn ông tên Th. Th hỏi T “Có chơi không tao đưa cho một ít mà chơi”, T hiểu ý Th hỏi có sử dụng ma túy không nên trả lời “Có”, sau đó Th đưa cho T 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, bên trong có 01 gói giấy chứa chất bột màu trắng dạng cục, T biết đó là ma túy nên cầm trong lòng bàn tay trái. Khi T đang điều khiển xe mô tô đi tìm chỗ sử dụng thì gặp tổ công tác Công an phường C, thành phố P đang làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát tại khu vực chợ Nam Sơn, thấy có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu T dừng xe để kiểm tra. Tại chỗ lực lượng Công an thu giữ ở lòng bàn tay trái của T 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long bên trong có 01 gói giấy màu trắng, bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng, T khai nhận đó là gói ma túy của T tàng trữ để sử dụng. Lực lượng Công an đã đưa T cùng vật chứng về trụ sở lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Vật chứng và tài sản thu giữ gồm: 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel; 01 chứng minh nhân dân mang tên Lê Văn T; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng; 01 xe mô tô BKS 90F9-4595.

Cùng ngày, Công an phường C đã chuyển hồ sơ, đối tượng Lê Văn T và vật chứng đến cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý để giải quyết theo thẩm quyền.

Ngày 16/6/2021 Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý thi hành lệnh khám xét khẩn cấp đối với chỗ ở của Lê Văn T tại tiểu khu K, thị trấn KK, huyện T, tỉnh Hà Nam. Quá trình khám xét không thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan đến vụ án.

Tại bản kết luận giám định số 130/PC09-MT ngày 21/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận “Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,183g, loại: Heroine”.

Tại bản cáo trạng số 120/CT-VKS-PL ngày 21/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố Lê Văn T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý trình bày luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như đã nêu trong bản cáo trạng, không thay đổi, bổ sung gì thêm. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX):

+ Tuyên bố bị cáo Lê Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 50, Điều 38 Bộ luật Hình sự.Xử phạt bị cáo Lê Văn T từ 24đến 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 16/6/2021. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

+ Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số Heroine hoàn trả sau giám định cùng toàn bộ bao gói và 01 vỏ bao thuốc lá thăng long màu vàng;trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel; 01 chứng minh nhân dân mang tên Lê Văn T;trả lại cho anh Nguyễn Tiến Đ 01 xe mô tô BKS 90F9 - 4595.

+ Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

- Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa, nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, nên HĐXX vẫn tiến hành xét xử theo quy định pháp luật.

[3] Về tội danh: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lê Văn T đã khai, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng, bản kết luận giám định, lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án mà Cơ quan điều tra đã thu thập. HĐXX có đủ cơ sở để kết luận:Khoảng 09 giờ ngày 16/6/2021, tại khu vực chợ Nam Sơn thuộc tổ dân phố N, phường C, thành phố P, Lê Văn T đang cất giữ trái phép 0,183 gam chất ma túy, loại Heroine trong lòng bàn tay trái, mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Công an phường C phát hiện, bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, phù hợp pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo ở địa phương nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51của Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt:

Về hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy và các chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an trong xã hội và là nguyên nhân phát sinh nhiềuhành vi vi phạm pháp luật khác. Bản thân bị cáo biết rõ hành vi tàng trữ chất ma túy và các chất gây nghiện bị nhà nước cấm nhưng vẫn cố tình thực hiện. Vì vậy, HĐXX thấy cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm. Song xét bị cáo thành khẩn khai báo, chưa có tiền án, tiền sự nên cũng cần xem xét để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, mục đích tàng trữ để sử dụng nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Xử lý vật chứng:

Đối với số ma túy loại Heroine được hoàn trả sau giám định cùng toàn bộ bao gói là vật chứng của vụ án mà Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 chứng minh nhân dân mang tên Lê Văn T và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Itel là giấy tờ, tài sản hợp pháp của bị cáo T, không liên quan gì đến vụ án nên trả lại cho bị cáo là phù hợp với pháp luật.

Đối với 01 xe mô tô biển kiểm soát 90F9 - 4595 là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Tiến Đ, anh Đ cho T mượn xe nhưng không biết T sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội nên cần trả lại chiếc xe trên cho anh Đ là phù hợp với quy định của pháp luật.

[7] Về nguồn gốc số ma túy thu giữ của bị cáo T: Bị cáo xác định số ma túy trên là do người đàn ông tên Th đưa cho bị cáo tại khu vực chợ Mỏ thuộc tổ dân phố N, phường C, thành phố P vào ngày 16/6/2021 để sử dụng, bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ của người này. Ngoài lời khai của bị cáo thì không còn tài liệu, chứng cứ nào khác nên không xác định được nguồn gốc số ma túy mà bị cáo cất giấu cũng như đối tượng có liên quan để xử lý.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Quyền kháng cáo: Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được thực hiện theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 47, Điều 50 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ các Điều 106, 136, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Căn cứ Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Tuyên bố bị cáo Lê Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2/ Xử phạt bị cáo Lê Văn T27 (hai mươi bẩy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 16 tháng 6 năm 2021.

3/ Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy loại: Heroine trong phong bì niêm phong mặt trước có ghi: “Mẫu vật hoàn trả QT01”, số 130/PC09-MT và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng;

Trả lại cho bị cáo Lê Văn T: 01 chứng minh nhân dân số 168113385 mang tên Lê Văn T và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Itel vỏ màu tím than (đã cũ, qua sử dụng).

Trả lại cho anh Nguyễn Tiến Đ: 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 90F9 - 4595, màu sơn đỏ - đen (đã cũ, qua sử dụng).

(Tình trạng vật chứng như trong biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 23/7/2021 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý).

4/ Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Lê Văn T phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặtđược quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành bản án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

151
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 113/2021/HS-ST

Số hiệu:113/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về