Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 11/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲ HỢP, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 11/2024/HS-ST NGÀY 28/02/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 28 tháng 02 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai trực tuyến vụ án hình sự thụ lý số 12/2024/TLST-HS ngày 05 tháng 02 năm 2024, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13 /2024/QĐST-HS ngày 16 tháng 02 năm 2024 đối với bị cáo:

Họ và tên: Cao Thị Thùy L, tên gọi khác: Không;

Sinh ngày 03/5/1992 tại huyện Q, tỉnh Nghệ An; Trú tại: M, xã M, huyện Q, tỉnh Nghệ An. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Thổ; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Cao Thanh T và bà Hồ Thị H; Chồng Âu Văn V, con: 02 người (lớn sinh năm 2018, nhỏ sinh năm 2019); tiền án, tiền sự và nhân thân: Không. Bị cáo bị tạm giữ, giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Q từ ngày 14/01/2024 đến ngày 26/02/2024. Từ ngày 27/02/2024 đến nay bị tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh N. (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào Hồi 20 giờ 30 phút ngày 14/01/2024, nhận được tin báo của quần chúng nhân dân về việc có đối tượng đang có biểu hiện nghi vấn về ma túy tại đoạn đường trước nhà nghỉ H1 thuộc khối H, thị trấn Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An, tổ công tác Công an huyện Q phát hiện, bắt quả tang đối tượng Cao Thị Thùy L, sinh năm 1992, trú tại xóm M, xã M, huyện Q, tỉnh Nghệ An có biểu hiện tàng trữ trái phép chất ma tuý. Qua kiểm tra thu giữ 01 gói ni lông màu đen, bên trong có chứa 09 (chín) viên nén màu hồng (nghi là ma tuý). Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ các vật chứng có liên quan và đưa đối tượng về trụ sở Công an để làm việc.

Kết luận giám định số 175/KL – KTHS (Đ2- MT) ngày 18/01/2024 của phòng K Công an tỉnh N kết luận: Mẫu viên nén màu hồng thu giữ của Cao Thị Thùy L gửi tới giám định là ma túy loại Methamphetamine.

Số viên nén màu hồng thu giữ của Cao Thị Thùy L có tổng khối lượng là 0,990 gam (không phẩy chín trăm chín mươi gam).

Bản cáo trạng số 14/VKS – HS ngày 01/02/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Hợp truy tố bị cáo Cao Thị Thùy L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Cao Thị Thùy L khai nhận: Bản thân là người nghiện chất ma túy, loại ma túy thường sử dụng là ma túy hồng phiến. Vào khoảng 19 giờ 30 phút, ngày 14/01/2024, L đi từ nhà ở xóm M, xã M, huyện Q đi đến khu vực cầu K thuộc huyện N, tỉnh Nghệ An để mua ma túy về sử dụng. Tại đây, L gặp một người đàn ông không quen biết và L có hỏi mua ma túy hồng phiến thì người đàn ông đó đồng ý bán. L đưa cho người đàn ông đó số tiền 700.000 đồng, đồng thời người đàn ông đó đưa cho L một gói ni lông màu đen, bên trong có chứa ma túy hồng phiến. Sau khi mua được ma túy, L đón xe taxi đi lên thị trấn Q để sử dụng. Khi L đang đi bộ từ đường Q đi vào đường liên khối bên cạnh khách sạn H2 thuộc khối H, thị trấn Q, huyện Q thì bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện bắt quả tang và đưa L về trụ sở công an để làm việc. Bị cáo Cao Thị Thùy L nhất trí với cáo trạng của VKSND huyện Quỳ Hợp truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo về tội danh và điều luật như nội dung cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Cao Thị Thùy L từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 09 tháng tù.

Về vật chứng: Đề nghị áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số Methamphetamine còn lại sau khi gửi giám định.

Về án phí: Bị cáo Cao Thị Thùy L phải chịu tiền án phí theo quy định của pháp luật và đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung với bị cáo.

Bị cáo Cao Thị Thùy L nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Bị cáo Cao Thị Thùy L nói lời nói sau cùng: Bị cáo biết việc làm của mình là sai trái mong Hội đồng xét xử cho bị cáo mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Q, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Chứng cứ xác định có tội:

Căn cứ tài liệu, chứng cứ Cơ quan điều tra thu thập được tại hồ sơ vụ án,căn cứ lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa, đã có đủ cơ sở kết luận: Vào hồi 20 giờ 30 phút, ngày 14/01/2024, tại đoạn đường trước nhà nghỉ H1 thuộc khối H, thị trấn Q, Công an huyện Q phát hiện, bắt quả tang Cao Thị Thùy L đang có hành vi tàng trữ 01 gói ni lông màu đen, bên trong có chứa 09 (chín) viên nén màu hồng (ma túy Methamphetamine) có khối lượng 0,990 gam (không phẩy chín trăm chín mươi gam) nhằm mục đích sử dụng. Lời khai nhận của bị cáo Cao Thị Thùy L tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ, vật chứng được thu giữ, gồm: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 14/01/2024; Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại ngày 14/01/2024; Kết luận giám định định số 175/KL – KTHS (Đ2- MT) ngày 18/01/2024, của Phòng K - Công an tỉnh N. Do đó, có đủ căn cứ xác định hành vi trên của Cao Thị Thùy L đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Hợp là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi của bị cáo Cao Thị Thùy L là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quy định của Nhà nước về chế độ quản lý các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, là nguyên nhân gây ra nhiều tệ nạn xã hội.

Do đó, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội và răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, do đó cần áp dụng để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Đối với người đàn ông bán ma túy cho Cao Thị Thùy L, do không xác định được địa chỉ, lai lịch cụ thể nên không có căn cứ để xử lý.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng ....”. Do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo đang bị tạm giam, trước khi phạm tội bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định, điều kiện kinh tế khó khăn, nghiện chất ma tuý. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Vật chứng vụ án:

- Số ma tuý còn lại 0,675 gam Methamphetamine sau khi gửi giám định cùng vỏ gói, bao gói là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo Cao Thị Thùy L chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Cao Thị Thùy L 21 (Hai mươi mốt) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù được tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 14 tháng 01 năm 2024.

Vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 0,675 gam ma túy (M) và vỏ bao niêm phong.

Đặc điểm chi tiết vật chứng được phản ánh tại biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 01/02/2024 giữa Công an huyện Q và Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Quỳ Hợp.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XIV.

Bị cáo Cao Thị Thùy L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án ngày 28 /02/2024.  

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

5
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 11/2024/HS-ST

Số hiệu:11/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳ Hợp - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về