Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 11/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TAM ĐIỆP - TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 11/2022/HS-ST NGÀY 23/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 03 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình xét xử công khai, sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 08/2022/TLST - HS ngày 24 tháng 02 năm 2022, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2022/QĐXXST- HS ngày 09 tháng 03 năm 2022 đối bị cáo:

Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1992, tại: huyện H, tỉnh Th; nơi cư trú: thôn Ph, xã Y, huyện H, tỉnh Th; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ1 (đã chết) và bà Nguyễn Thị D; vợ, con: không có; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: bản án số 21/2014/HSST ngày 24/6/2014 của Toà án nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá xử phạt 42 tháng tù về tội; “Cướp tài sản”; bị bắt giữ từ ngày 13/12/2021 đến ngày 19/12/2021 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh Ninh Bình đến nay (có mặt).

- Người làm chứng: ông Phạm Đức T (vắng mặt).

- Người chứng kiến: ông Phạm Khắc Th (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ 20 phút ngày 13/12/2021, tổ công tác công an thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình làm nhiệm vụ tuần tra đảm bảo an ninh trật tự trên tuyến đường Ngô Thì Nhậm, thuộc tổ 13 phường Trung Sơn, thành phố Tam Điệp, phát hiện một nam thanh niên đang đứng một mình ở lề đường bên phải theo chiều từ Quốc lộ 1A đi vào, có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma tuý. Tổ công tác đến yêu cầu kiểm tra chứng minh nhân dân hoặc căn cước công dân. Tại chỗ nam thanh niên không xuất trình được giấy tờ để kiểm tra và khai nhận tên là Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1992 nơi cư trú: thôn Ph, xã Y, huyện H, tỉnh Th. Khi tổ công tác hỏi Đ có sử dụng ma tuý không, thì Đ khai nhận bản thân là người sử dụng ma tuý loại Heroine, đồng thời Đ lấy từ trong túi áo khoác phía trước bên trái đang mặc ra nộp 01 bao thuốc lá Thăng Long mầu vàng và khai nhận ở bao thuốc có 01 gói Heroine Đ vừa mua của một người đàn ông không quen biết tại đầu đường giáp Nhà văn hoá thành phố Tam Điệp. Tổ công tác thu giữ, kiểm tra xác định bên trong bao thuốc lá Thăng Long có 03 điếu thuốc, ở kẽ giữa vỏ bọc nilon bọc ngoài bao thuốc với vỏ bao thuốc có 01 gói nhỏ bọc ngoài bằng giấy bạc mầu vàng, kích thước (2x1,5)cm, bên trong có chứa chất bột dạng cục mầu trắng, Đ khai là Heroine của Đ vừa mua được để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác tiến hành niêm phong gói Heroine rồi đưa Đ cùng vật chứng về trụ sở công an phường Trung Sơn lập biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang. Cơ quan điều tra tiến hành cân xác định khối lượng chất bột dạng cục màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn Đ có khối lượng 0,18gam ký hiệu M gửi đi trưng cầu giám định.

Tại bản kết luận giám định số 14/KLGĐ - PC09 - MT ngày 19/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi đi giám định ký hiệu M có khối lượng 0,2063gam là ma túy, loại Heroine.

Heroine là chất ma túy thuộc bảng danh mục I, số thứ tự 9; Nghị định số 73/2018/NĐ - CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Tại bản cáo trạng số 12/CT-VKS ngày 22/02/2022 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp truy tố bị cáo Nguyễn Văn Đ về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị HĐXX: tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ từ 18 tháng đến 24 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 13/12/2021.

Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu huỷ vật chứng bao gồm:

+ 01 phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật, bên trong có mẫu vật ký hiệu M = 0,1467gam ma túy loại Heroine và toàn bộ vỏ bao gói niêm phong.

+ 01 phong bì giấy dán kín nép niêm phong theo quy định của pháp luật bên ngoài ghi vật chứng còn lại gồm: 01vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, đã bị cắt một đầu; 01 mảnh giấy bạc màu vàng, kích thước (6x4)cm.

+ 01 bao thuốc lá Thăng Long mầu vàng bên trong có 03 điếu thuốc lá Thăng Long.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn Đ khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, như cáo trạng đã truy tố. Bị cáo cho rằng việc truy tố của Viện kiểm sát là đúng người đúng tội, đồng ý với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp tại phiên toà về việc giải quyết vụ án. Nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị được giảm nhẹ hình phạt.

Người làm chứng ông Phạm Đức T khai báo: khoảng 11 giờ 20 phút ngày 13/12/2021, ông T đang đứng ở hành lang trước cửa nhà ở đường Ngô Thì Nhậm, thuộc tổ 13, phường Trung Sơn, thành phố Tam Điệp, nhìn thấy công an đang kiểm tra hành chính, bị cáo Đ không xuất trình được giấy tờ tùy thân và khai nhận là người nghiện ma túy, đồng thời tự lấy ở trong túi áo khoác đang mặc 01 gói, bị cáo khai nhận là ma túy giao nộp cho công an, công an có mời ông Phạm Khắc Th chứng kiến việc bị cáo giao nộp 01 gói ma túy cho công an.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời nhận tội của bị cáo Đ tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, phù hợp với lời khai của người làm chứng và người chứng kiến, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định số 14/KLGĐ-PC09-MT ngày 19/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: khoảng 11 giờ 20 phút ngày 13/12/2021 trên đường Ngô Thì Nhậm thuộc tổ 13, phường Trung Sơn, thành phố Tam Điệp, bị cáo Nguyễn Văn Đ có hành vi tàng trữ 01 gói ma túy có khối lượng 0,2063 gam, loại Heroine với mục đích sử dụng cho bản thân.

[2] Bị cáo Đ là người có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi tàng trữ ma túy trong người để sử dụng cho bản thân là trái phép, là cố ý và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trị an trên địa phương.

Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định về: “Tội tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma tuý thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm a) …… c) Heroine, Cocain, Methamphetamine, Amphetamine, ADMA hoặc XLR-11 có khối lượng 0,1gam đến dưới 05gam.

Như vậy, khối lượng ma tuý loại Heroine mà bị cáo tàng trữ được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, do đó hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân:

Bị cáo Đ không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo Đ là người có nhân thân xấu, ngày 24/6/2014 Toà án nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá xử phạt 42 tháng tù về tội: “Cướp tài sản” đã được xoá án tích.

[4] Về hình phạt: xét tính chất, mức độ nguyên hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, khối lượng, loại chất ma túy bị cáo Đ đã tàng trữ. Hội đồng xét xử xết thấy mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp đề nghị xử phạt đối với bị cáo là tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo đủ nghiêm khắc để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân sống có ích cho bản thân và cho xã hội, đồng bảo đảm tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ xung: bị cáo Đ phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” với mục đích để sử dụng cho bản thân không mang tính chất vụ lợi. Vì vậy không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo Đ.

[6] Về xử lý vật chứng: đối với số ma túy được hoàn trả sau khi giám định có khối lượng 0,1467gam là vật cấm lưu hành; 01vỏ phong bì giấy đã bị xé rách một đầu dùng niêm phong vật chứng ban đầu, được niêm phong trong một phong bì giấy; 01 mảnh giấy bạc màu vàng kích thước (6x4)cm; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long mầu vàng bên trong có 03 điếu thuốc là vật không còn giá trị. Do vậy căn cứ điểm a, c khoản 2 điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự tịch thu tiêu hủy.

[7] Về nguồn gốc số ma túy, bị cáo Đ khai nhận vào sáng ngày 13/12/2021 bị cáo bắt xe khách từ nhà ra thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình gặp người thân, khi xuống xe ở đoạn đường trước Nhà văn hoá thành phố Tam Điệp bị cáo gặp và hỏi mua 01 gói Heronie với giá 100.000đ của một người đàn ông không quen biết. Sau đó bị cáo đi đến khu vực thuộc tổ 13, phường Trung Sơn, thành phố Tam Điệp tìm nơi sử dụng, thì bị tổ công tác Công an thành phố Tam Điệp kiểm tra hành chính, phát hiện bắt quả tang, nên bị cáo không biết được họ tên, tuổi địa chỉ, đặc điểm nhận dạng, phương tiện của người đàn ông đã bán ma tuý cho bị cáo. Do vậy không đủ cơ sở xác minh làm rõ.

[8] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Tam Điệp, điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[9] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[10] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Căn điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Căn cứ các điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Văn Đ 20 (hai mươi) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 13/12/2021.

2. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu huỷ:

+ 01 phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật, bên trong có mẫu vật ký hiệu M = 0,1467gam ma túy loại Heroine và toàn bộ vỏ bao gói niêm phong.

+ 01 phong bì giấy dán kín mép niêm phong theo quy định của pháp luật bên ngoài ghi vật chứng còn lại gồm: 01vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, đã bị cắt một đầu; 01 mảnh giấy bạc màu vàng, kích thước (6x4)cm.

+ 01 bao thuốc lá Thăng Long mầu vàng bên trong có 03 điếu thuốc lá Thăng Long.

(Chi tiết vật chứng theo biên bản bàn giao vật chứng ngày 22/02/2022 giữa Cơ quan điều tra công an thành phố Tam Điệp với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Tam Điệp).

3. Về án phí: bị cáo Nguyễn Văn Đ phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 11/2022/HS-ST

Số hiệu:11/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tam Điệp - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về