Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 11/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY PHƯỚC, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 11/2021/HS-ST NGÀY 09/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 12 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện TP, tỉnh BĐ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 19/2021/TLST-HS, ngày 04 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2021 và Thông báo chuyển thời gian xét xử số 230/2021/TB-TA ngày 26 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

Huỳnh Đắc N, sinh ngày 17 tháng 01 năm 1999 tại huyện TP, tỉnh BĐ; nơi cư trú khu phố VH 2, thị trấn DT, huyện TP, tỉnh BĐ; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Đắc P và bà Trần Thị H; vợ, con: Chưa có; tiền sự: Không, tiền án: Không. Về nhân thân: Ngày 26 tháng 7 năm 2016 bị Tòa án nhân dân tỉnh BĐ xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 26 tháng 06 năm 2017 bị Tòa án nhân dân tỉnh BĐ xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”; bị cáo tại ngoại; có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng: Anh Lê Văn T, sinh năm 1992, nơi cư trú khu phố LL, thị trấn DT, huyện TP, tỉnh BĐ; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào đêm ngày 28 tháng 8 năm 2021, bà Lê Thị Hoàng T nhờ bị cáo Huỳnh Đắc N đi mua đồ ăn. Vì muốn sử dụng ma túy nên trước khi đi mua đồ ăn giúp bà T, bị cáo đã gọi điện thoại cho một thanh niên tên H có số điện thoại 0789457793 nhờ H mua ma túy với số tiền 200.000 đồng để về sử dụng thì H đồng ý. Hải thỏa thuận với bị cáo là giao nhận ma túy tại khu vực trước quán cà phê M thuộc phường TQD, thành phố QN, tỉnh BĐ. Sau khi liên lạc xong, bị cáo điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 77F9-5369 đi đến địa điểm đã hẹn để gặp H. Đến khoảng 20 giờ 10 phút cùng ngày bị cáo gặp H thì H đưa cho bị cáo 01 túi ni lông chứa ma túy đá đựng trong 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Jet; bị cáo đưa cho H số tiền 200.000 đồng. Sau khi mua ma túy xong, bị cáo lấy ma túy giấu trong người rồi đi mua đồ ăn. Do trước khi mua đồ ăn, bị cáo có gọi điện thoại cho anh Lê Văn T gửi trả loa nghe nhạc cho anh Lê Thanh P là con của bà Lê Thị Hoàng T nên sau khi mua đồ ăn xong, bị cáo gặp anh T tại Công viên LV thuộc phường TQD, thành phố QN, tỉnh BĐ. Vì lúc này bị cáo chở đồ ăn cồng kềnh, không thể chở loa được nên anh T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 77X7-8290 chở loa và một ít đồ ăn giúp bị cáo rồi cùng đi. Khi đi đến khu vực dốc cây khế thuộc thôn VH 2, thị trấn DT, huyện TP, tỉnh BĐ bị cáo và anh T dựng xe ngoài đường rồi đi giao đồ ăn và trả loa cho bà Lê Thị Hoàng T rồi cùng đi về. Khi đi ra đến nơi dựng xe, lúc này khoảng 21 giờ 15 phút cùng ngày thì Công an thị trấn DT, huyện TP, tỉnh BĐ kiểm tra phát hiện tạm giữ tang vật gồm 01 túi bằng nhựa có kích thước (01x03) cm bên trong chứa các hạt tinh thể nghi là ma túy; 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Jet; 01 chiếc xe mô tô hiệu Wave 110, biển kiểm soát 77F9-5369; 01 điện thoại di động Iphone 6S, vỏ màu hồng; 01 điện thoại di động hiệu Samsung A5, vỏ màu vàng và 01 xe mô tô nhãn hiệu Sirius, biển kiểm soát 77X7- 8290. Ngoài ra, bị cáo còn khai nhận vào đêm ngày 25 tháng 8 năm 2021, bị cáo mua ma túy của một người thanh niên tên H về sử dụng nhưng do lượng ma túy ít nên H không lấy tiền. Sau khi mua ma tuý thì một mình bị cáo sử dụng hết số lượng ma tuý đã mua.

Theo kết luận giám định số 271/PC09 ngày 01 tháng 9 năm 2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh BĐ kết luận các hạt tinh thể đựng bên trong 01 túi nhựa kích thước (01x03) cm (ký hiệu A) gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2281 gam là loại Methamphetamine.

Tại bản Cáo trạng số 71/CT-VKS-TP ngày 02 tháng 11 năm 2021, Viện Kiểm sát nhân dân huyện TP, tỉnh BĐ đã truy tố bị cáo Huỳnh Đắc N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Đều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo tử 24 đến 30 tháng tù.

Đề nghị áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tuyên tịch thu tiêu hủy 01 bì thư dán kín niêm phong ba dấu tròn “Phòng kỹ thuật hình sự-Công an tỉnh BĐ” (bên trong đựng: vỏ, bao bì đựng mẫu vật còn lại sau giám định; 0,1146 gam mẫu A còn lại sau giám định) và 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Jet, màu trắng.

Tuyên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6s, vỏ màu hồng, số IMEI 353286075537348.

Đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng phạt bổ sung đối với bị cáo.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa Kiểm sát viên, bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện TP, tỉnh BĐ.

Bị cáo Huỳnh Đắc N nói lời sau cùng: Bị cáo đã biết hành vi của bị cáo là sai trái, vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện TP, tỉnh BĐ; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện TP, tỉnh BĐ; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người làm chứng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Huỳnh Đắc N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án nên đủ cơ sở kết luận vào khoảng 21 giờ 15 phút ngày 28 tháng 8 năm 2021, bị cáo Huỳnh Đắc N thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0.2281 gam chất ma túy là loại Methamphetamine để sử dụng thì bị bắt quả tang. Bị cáo Huỳnh Đắc N là người có đủ năng lực để nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi nguy hiểm cho xã hội, vi phạm quy định về quản lý của Nhà nước về các chất ma túy nhưng vì muốn có ma túy để sử dụng nên bị cáo thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0.2281 gam chất ma túy là loại Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh Mục II kèm theo Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ quy định các danh Mục chất ma túy và tiền chất. Hành vi của bị cáo tàng trữ 0.2281 gam Methamphetamine không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy nên hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm quy định về quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Hành vi của bị cáo đã thực hiện là một trong những nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm và các tệ nạn xã hội khác.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo phạm tội có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Bị cáo là người có nhân thân không tốt vì bị cáo đã nhiều lần bị kết án Ngày 26 tháng 7 năm 2016 bị Tòa án nhân dân tỉnh BĐ xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 26 tháng 06 năm 2017 bị Tòa án nhân dân tỉnh BĐ xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”.

[5] Với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo như trên, lẽ ra xử phạt tù có thời hạn đối với bị cáo với mức hình phạt nghiêm khắc nhưng xét thấy sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện. Do đó khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo nhằm mục đích giáo dục bị cáo có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa phạm tội mới; giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

[6] Xét về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định“Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, nhưng xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Jet, màu trắng là công cụ mà bị cáo dùng vào việc phạm tội hiện không có giá trị nên tuyên tịch thu và tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6s, vỏ màu hồng, số IMEI 353286075537348 là công cụ mà bị cáo dùng vào việc phạm tội nên tuyên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Đối với 01 bì thư dán kín niêm phong: ba hình dấu tròn “Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh BĐ” (bên trong đựng: vỏ, bao bì đựng mẫu vật còn lại sau giám định;

0,1146 gam mẫu A còn lại sau giám định) là loại Methamphetamine là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành nên tuyên tịch thu và tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[8] Xét về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Huỳnh Đắc N phải nộp số tiền 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách nhà nước.

[9] Vào đêm ngày 28 tháng 8 năm 2021, anh Lê Văn T có đi chung với bị cáo Huỳnh Đắc N nhưng anh T không biết bị cáo tàng trữ chất ma túy trong người nên anh T không đồng phạm với bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Vào ngày 24 tháng 8 năm 2021, một người tên S (không rõ nhân thân lai lịch) rủ anh Lê Văn T sử dụng chất ma túy tại Khu công nghiệp PT thuộc phường BTX, thành phố QN, tỉnh BĐ; vào một đêm trong năm 2017 nhưng không nhớ rõ ngày tháng, anh Lê Văn T cùng với anh Trần Nguyên T, sinh năm 1987; địa chỉ khu phố CC, thị trấn TP, huyện TP, tỉnh BĐ sử dụng ma túy tại khu vực 1, phường NP, thành phố QN, tỉnh BĐ. Tuy nhiên các lần anh Lê Văn T sử dụng ma túy đều tại địa bàn thành phố QN, tỉnh BĐ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TP, tỉnh BĐ đã đề nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố QN, tỉnh BĐ thụ lý điều tra theo thẩm quyền.

[10] Ngày 11 tháng 10 năm 2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TP, tỉnh BĐ đã có văn bản yêu cầu Viettel BĐ cung cấp thông tin về chủ thuê bao của số điện thoại 0789457793 nhưng hiện nay chưa có thông tin trả lợi, khi nào có thông tin sẽ điều tra, xử lý bằng một vụ án khác.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Huỳnh Đắc N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

3. Xử phạt bị cáo Huỳnh Đắc N 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi chấp hành hình phạt tù.

4. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Tuyên tịch thu và tiêu hủy 01 (Một) vỏ bao thuốc lá hiệu Jet, màu trắng và 01 (Một) bì thư dán kín niêm phong: ba hình dấu tròn “Phòng kỹ thuật hình sự-Công an tỉnh BĐ” (bên trong đựng: vỏ, bao bì đựng mẫu vật còn lại sau giám định; 0,1146 gam mẫu A còn lại sau giám định).

- Tuyên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 (Một) điện thoại di động hiệu Iphone 6s, vỏ màu hồng, số IMEI 353286075537348.

Các vật chứng trên đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện TP, tỉnh BĐ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 03 tháng 11 năm 2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TP, tỉnh BĐ và Chi cục thi hành án dân sự huyện TP, tỉnh BĐ.

5. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/PL-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Huỳnh Đắc N nộp số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách nhà nước.

6. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 09 tháng 12 năm 2021)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 11/2021/HS-ST

Số hiệu:11/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Phước - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về