Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 109/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 109/2022/HS-ST NGÀY 22/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22/9/2022, tại điểm cầu Toà án nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang và điểm cầu thành phần tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang, xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự thụ lý số 107/2022/TLST- HS, ngày 26 tháng 8 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 115/2022/QĐXXST-HS, ngày 09 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo:

Lê Văn G, sinh ngày 10/02/1986 tại Sơn Dương, Tuyên Quang.

Nơi ĐKHKTT và nơi ở: Thôn B, xã V, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn Hòa (đã chết) và bà Vũ Thị U, sinh năm 1958; vợ: Trần Thị H, sinh năm 1989; Có 02 con: Con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Không.

* Nhân thân:

- Bản án số 82/2010/HSST ngày 17/12/2010 của Tòa án nhân dân huyện Yên Sơn, xử phạt Lê Văn G 07 năm tù về tội Cướp tài sản, sung công quỹ Nhà nước 1.100.000 đồng, án phí 200.000 đồng. Ngày 30/8/2013, Lê Văn G đã chấp hành xong toàn bộ bản án (theo diện đặc xá).

- Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 39 ngày 02/2/2016 của Phòng cảnh sát hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, xử phạt Lê Văn G 1.500.000 đồng về hành vi Đánh bạc. Ngày 22/02/2016 đã chấp hành xong.

* Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/5/2022 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang (Có mặt tại điểm cẩu thành phần Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 29/5/2022, Lê Văn G, cư trú tại thôn B, xã V, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang là người sử dụng chất ma túy, đến nhà Lê Văn C, sinh năm 1952 (là bác ruột, gần nhà G) hỏi mượn xe mô tô biển kiểm soát 22K3 - xxxx để đi rút tiền, ông C đồng ý. Sau đó G một mình điều khiển xe mô tô đến khu vực chợ Xoan thuộc xã Thượng Ấm, huyện Sơn Dương rút 400.000 đồng bằng thẻ ATM rồi tiếp tục điều khiển xe đến đoạn đường thuộc thôn Đa Năng, xã Tú Thịnh, huyện Sơn Dương mục đích tìm mua ma túy về sử dụng. Tại khu vực thôn Đa Năng, G gặp và mua của một người đàn ông không xác định được họ tên, địa chỉ được 01 gói ma túy bên ngoài gói bằng mảnh giấy màu trắng có 01 dòng kẻ màu đen, với số tiền 400.000 đồng. G cất giấu số ma túy vừa mua được vào túi quần bên phải đang mặc trên người rồi điều khiển xe đi về, khi vừa đi được khoảng 01 km đến đoạn đường thuộc thôn Đa Năng, xã Tú Thịnh, huyện Sơn Dương thì bị Tổ công tác Công an xã Tú Thịnh kiểm tra phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 12 giờ 30 phút cùng ngày. G tự giác giao nộp 01 gói ma túy bên ngoài gói bằng mảnh giấy màu trắng có 01 dòng kẻ màu đen bên trong chứa chất bột vón cục màu trắng ngà.

Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với Lê Văn G, kết quả: Dương tính (+). G khai nhận ngày 28/5/2022 đã sử dụng ma túy mua của một người đàn ông không xác định được họ tên, địa chỉ, tại thôn Đa Năng, xã Tú Thịnh, huyện Sơn Dương.

Kết luận giám định số 619/GĐKTHS ngày 02/6/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Mẫu vật (thu giữ của Lê Văn G) gửi giám định là ma túy, loại Heroine; khối lượng 0,197g (Không phẩy một chín bảy gam).

Về vật chứng: Cơ quan CSĐT Công an huyện Sơn Dương thu giữ 01 phong bì bên trong chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài phong bì có chữ ký của Lê Văn G và dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự tỉnh Tuyên Quang. Đối với xe mô tô biển kiểm soát 22K3 - xxxx, ngày 13/6/2022 Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu.

Từ nội dung trên, tại Cáo trạng số 103/CT-VKSSD, ngày 24/8/2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương đã truy tố Lê Văn G về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố, giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị:

- Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn G phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Văn G từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam.

Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì bên trong chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài phong bì có chữ ký của Lê Văn G và dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự tỉnh Tuyên Quang.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử xem xét về nghĩa vụ chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Kết thúc phần tranh tụng, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, tỏ thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về nội dung vụ án: Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, như Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố. Ngoài lời khai nhận tội của bị cáo, hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; vật chứng đã thu giữ; kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ trên có đủ cơ sở kết luận: Hồi 12 giờ 30 phút ngày 29/5/2022, tại thôn Đa Năng, xã Tú Thịnh, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Lê Văn G, sinh ngày 10/02/1986, cư trú tại thôn B, xã V, huyện Sơn Dương đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,197g (Không phẩy một chín bảy gam) Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân.

Hành vi của Lê Văn G đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Vì vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật như cáo trạng là có căn cứ pháp luật.

[2] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội, tỏ thái độ ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, cần áp dụng khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[3] Về mức án Viện kiểm sát đề nghị:

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nghiêm trọng, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý; xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết hành vi tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố tình thực hiện. Hành vi của bị cáo là cố ý, thể hiện sự coi thường pháp luật. Vì vậy, cần phải có mức án nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù giam trong thời gian nhất định, để cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm chung.

Xét bị cáo không có tài sản riêng có giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 phong bì bên trong chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài phong bì có chữ ký của Lê Văn G và dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự tỉnh Tuyên Quang, là vật chứng của vụ án thuộc danh mục Nhà nước cấm lưu hành, nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với xe mô tô biển kiểm soát 22K3 - xxxx, ngày 13/6/2022 Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[6] Các vấn đề khác.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Lê Văn G. Công an huyện Sơn Dương đã xử phạt vi phạm hành chính tại Quyết định số 242 ngày 06/7/2022.

phạt tiền 1.500.000 đồng nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với người đàn ông theo G khai nhận là người bán ma túy cho G ở khu vực thôn Đa Năng, xã Tú Thịnh, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, nhưng không xác định được tên tuổi, địa chỉ. Cơ quan Cảnh sát điều tra không có căn cứ điều tra, xử lý, do vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử:

Qua xem xét, nghiên cứu hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định: Quá trình điều tra và truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật có liên quan. Khởi tố, điều tra, thu thập chứng cứ, truy tố đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lê Văn G phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lê Văn G 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 29/5/2022).

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) phong bì bên trong chứa ma túy đã được niêm phong. Bên ngoài, mặt sau trên các mép dán có hình dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự tỉnh Tuyên Quang, chữ ký xác nhận của các thành phần tham gia niêm phong và Lê Văn G; mặt trước phong bì ghi “Tang vật vụ Lê Văn G giám định ngày 29/5/2022”.

Tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/8/2022 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Dương và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sơn Dương.

4. Về án phí và quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án:

Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15(Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (22/9/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

29
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 109/2022/HS-ST

Số hiệu:109/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về