Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 108/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY PHONG, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 108/2021/HS-ST NGÀY 14/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14/9/2021, tại Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 71/2021/TLST-HS ngày 09/7/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 104/2021/QĐXXST-HS ngày 31/8/2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Quốc T, sinh năm 1996, tại tỉnh Bình Thuận. Nơi cư trú: Khu phố A, thị trấn L, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn E và bà Trần Thị C; Vợ, con: Không có;

Tiền án: 01 tiền án, tại bản án số 51/2018/HSST ngày 28/6/2018 bị Toà án nhân dân huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận xử phạt 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong án phạt tù ngày 19/6/2019.

Tiền sự: 01 tiền sự, ngày 19/02/2021 bị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị trấn L quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn thời hạn 03 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy;

Nhân thân:

- Ngày 05/02/2018 bị Toà án nhân dân huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

- Ngày 23/02/2021 bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuy Phong khởi tố bị can về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm đ khoản 2 điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), hiện Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử.

Bị cáo bị bắt từ ngày 27/4/2021 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Tuy Phong, có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng: Võ Thị Kim N, sinh năm 2002. (Vắng mặt) Địa chỉ: Khu phố A, thị trấn L, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Quốc T là đối tượng nghiện ma túy. Khoảng 13 giờ ngày 27/4/2021, T điều khiển xe mô tô hiệu Honda Blade, biển số 86B1 353.41 (xe T mượn của Trần Thị H) chở Võ Thị Kim N (sống chung như vợ chồng với T) đến trước nhà trọ An Bình, trên đường Phạm Ngọc Thạch thuộc khu phố A, thị trấn L, huyện Tuy Phong thì nhìn thấy lực lượng Phòng Cảnh sát điều tội phạm về ma túy Công an tỉnh Bình Thuận phối hợp với Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Tuy Phong và Công an thị trấn L đến kiểm tra, T liền lấy ma túy đá trong túi quần thả xuống nền xi măng trước nhà trọ nơi T đang đứng thì bị phát hiện bắt quả tang.

Thu giữ trên nền xi măng, tại vị trí T đứng gồm: 01 (một) gói nylon không màu hàn kín, kích thước khoảng (04 x 6,5)cm, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; 01 (một) gói nylon có nhíp kéo một đầu màu đỏ, kích thước khoảng (04 x 05)cm, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; 01 (một) gói nylon có nhíp kéo một đầu màu đỏ, kích thước khoảng (05 x 08)cm, bên trong có 04 (bốn) gói nylon không màu hàn kín, trong đó: 02 (hai) gói nylon có kích thước tương đồng nhau khoảng (1,5 x 05)cm; 01 (một) gói nylon kích thước khoảng (02 x 03)cm; 01 (một) gói nylon kích thước khoảng (01 x 04)cm, bên trong 04 gói nylon này đều chứa chất tinh thể màu trắng. T khai nhận chất tinh thể màu trắng trong các gói nylon là ma túy đá của T mục đích để sử dụng (được niêm phong trong phong bì ký hiệu số 01).

Thu giữ trong túi quần trước bên trái của T 01 (một) điện thoại di động màu đen, mặt sau điện thoại có chữ Iphone, có số thuê bao 0964363050, số IMEL 359188070738505; 01 (một) xe mô tô màu trắng hiệu Honda Blade biển số 86B1 353.41; thu giữ trong túi quần sau bên trái của T số tiền 1.000.000 đồng (một triệu đồng).

Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Quốc T tại khu phố A, thị trấn L, huyện Tuy Phong, thu giữ: 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá gồm nắp chai nhựa màu trắng có gắn đoạn ống nhựa màu cam, không có nỏ thủy tinh ; 01 đoạn ống nhựa màu xanh có cắt vác một đầu, hở một đầu, bên trong không có gì; 01 kéo kim loại dài khoảng 10cm; 01 cân tiểu ly. T khai nhận đây là những dụng cụ T dùng để phân lẻ và sử dụng ma túy, số ma túy đá bị bắt quả tang là do bị cáo mua của một người thanh niên không rõ nhân thân lai lịch tại khu vực vòng xoay phía Nam thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận vào ngày 26/04/2021, bị cáo mua về để sử dụng.

Tại bản kết luận giám định số 520/KLGĐ-PC09 ngày 06/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận kết luận: Mẫu M gửi giám định có khối lượng 6,3527 gam là Methamphetamine.

Tại bản Cáo trạng số 94/CT-VKSTP-HS ngày 08/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận đã truy tố bị cáo Nguyễn Quốc T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong: Giữ nguyên quan điểm truy tố tại cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc T từ 06 – 07 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tuyên:

+ Tịch thu, tiêu hủy các vật chứng do đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành và không có giá trị sử dụng gồm: các gói nylon đã cắt lấy mẫu và 4,0886 gam mẫu M còn lại sau giám định, được niêm trong phong bì số 520 có chữ ký của giám định viên Đinh Trung Hiếu và hình dấu tròn màu đỏ của phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá gồm nắp chai nhựa màu trắng có gắn đoạn ống nhựa màu cam, không có nỏ thủy tinh; 01 đoạn ống nhựa màu xanh có cắt vác một đầu, hở một đầu, bên trong không có gì; 01 kéo kim loại dài khoảng 10cm; 01 cân tiểu ly.

+ Trả lại ngay cho bị cáo T số tiền 1.000.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0002867 ngày 18/6/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuy Phong.

- Ý kiến của bị cáo: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã nêu là đúng, không oan. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là đầy đủ và tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác như Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; Kết luận giám định số 520/KLGĐ-PC09 ngày 06/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận, đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 13 giờ ngày 27/4/2021, tại vị trí trước nhà trọ An Bình đường Phạm Ngọc Thạch khu phố A, thị trấn L, huyện Tuy Phong, bị cáo Nguyễn Quốc T bị bắt quả tang có hành vi cất giữ 6,3527 gam Methamphetamine để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã đủ các yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã bị Toà án nhân dân huyện Tuy Phong xử phạt 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại bản án số 51/2018/HSST ngày 28/6/2018, chưa được xóa án tích nay lại thực hiện hành vi phạm tội, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Vì nghiện ma túy, bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi tàng trữ ma túy để sử dụng, đây là hành vi trái pháp luật làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, tiếp tay cho những phần tử xấu duy trì tệ nạn ma túy đi ngược lại lợi ích chung của toàn xã hội do đó cần phải xử phạt bị cáo một mức án thật nghiêm khắc để có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về xử lý vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả cho Trần Thị H 01 xe mô tô màu trắng, hiệu Honda Blade, biển số 86B1-353.41 do Hoa không biết việc bị cáo T sử dụng xe mô tô liên quan đến ma túy; đã trả cho bị cáo T 01 điện thoại di động màu đen, mặt sau điện thoại có chữ Iphone có số thuê bao 0964363050, số IMEI 359188070738505 do không liên quan đến vụ án là có căn cứ.

Đi với các vật chứng là vật cấm tàng trữ, lưu hành và không có giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, vật chứng gồm:

+ Các gói nylon đã cắt lấy mẫu và 4,0886 gam mẫu M còn lại sau giám định, được niêm trong phong bì số 520 có chữ ký của giám định viên Đinh Trung Hiếu và hình dấu tròn màu đỏ của phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận.

+ Phong bì được niêm phong ký hiệu số 03 có chữ ký của Nguyễn Quốc T, Võ Thị Kim N, Ngô Thanh Đức, Dương Ngọc Tú, Trần Quốc Bảo, Đặng Hoài Vĩ, điều tra viên Trần Đức Thống và dấu tròn đỏ của Công an thị trấn L, huyện Tuy Phong, bên trong phong bì có: 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá gồm nắp chai nhựa màu trắng có gắn đoạn ống nhựa màu cam, không có nỏ thủy tinh; 01 đoạn ống nhựa màu xanh có cắt vác một đầu, hở một đầu, bên trong không có gì; 01 kéo kim loại dài khoảng 10cm; 01 cân tiểu ly.

Đi với tài sản đã thu giữ của bị cáo T nhưng không phải là vật chứng, áp dụng điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, trả lại ngay cho bị cáo T số tiền 1.000.000 đồng (một triệu đồng) theo biên lai thu tiền số 0002867 ngày 18/6/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuy Phong.

[5] Đối với Võ Thị Kim N đi chung với bị cáo T nhưng không biết bị cáo T cất giấu ma túy nên không xem xét xử lý là có căn cứ.

Đi với người thanh niên đã bán ma túy đá cho bị cáo T, do không rõ lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau là có căn cứ.

[6 Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Quốc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ: điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quốc T 06 (sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày 27/4/2021.

2. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ: điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tch thu, tiêu hủy:

+ Các gói nylon đã cắt lấy mẫu và 4,0886 gam mẫu M còn lại sau giám định, được niêm trong phong bì số 520 có chữ ký của giám định viên Đinh Trung Hiếu và hình dấu tròn màu đỏ của phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận.

+ Phong bì được niêm phong ký hiệu số 03 có chữ ký của Nguyễn Quốc T, Võ Thị Kim N, Ngô Thanh Đức, Dương Ngọc Tú, Trần Quốc Bảo, Đặng Hoài Vĩ, điều tra viên Trần Đức Thống và dấu tròn đỏ của Công an thị trấn L, huyện Tuy Phong, bên trong phong bì có: 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá gồm nắp chai nhựa màu trắng có gắn đoạn ống nhựa màu cam, không có nỏ thủy tinh; 01 đoạn ống nhựa màu xanh có cắt vác một đầu, hở một đầu, bên trong không có gì; 01 kéo kim loại dài khoảng 10cm; 01 cân tiểu ly.

(Các vật chứng trên hiện do Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuy Phong quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/7/2021) Trả lại ngay cho bị cáo Nguyễn Quốc T số tiền 1.000.000 đồng (một triệu đồng) theo biên lai thu tiền số 0002867 ngày 18/6/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuy Phong.

3. Về án phí:

Căn cứ: khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Quốc T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 108/2021/HS-ST

Số hiệu:108/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Phong - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về