TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 107/2023/HS-ST NGÀY 02/10/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 02 tháng 10 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 100/2023/TLST-HS ngày 13 tháng 9 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 98/2023/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo:
Trương Đăng Đ, sinh năm 1993, tại Hà Nam; nơi cư trú: Tổ B, thị trấn B huyện K, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Văn B1 và bà Hoàng Thị T; vợ: Đinh Thu T1, con: Có hai con, lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2017; tiền án: Ngày 28/11/2016 Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt 36 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt chung của cả hai tội buộc Trương Đ phải chấp hành là 66 tháng tù (chấp hành xong hình phạt tù ngày 17/9/2020); tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 06/8/2013, Ủy gan nhân dân huyện K, tỉnh hà Nam ra quyết định đưa đối tượng nghiện ma túy vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc, thời gian 24 tháng. Bị tạm giữ ngày 01/7/2023 đến ngày 07/7/2023 chuyển tạm giam cho đến nay. Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Hoàng Thị T, sinh năm 1967; có mặt.
Trú tại: Tổ B, thị trấn B, huyện K, tỉnh Hà Nam.
- Người làm chứng: Anh Phạm Vinh Q, sinh năm 1979; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 9 giờ ngày 01/7/2023, Trương Đăng Đ điều khiển xe mô tô Biển kiểm soát 36G1-xxxxx từ thị trấn B, huyện K đến thành phố P mục đích tìm mua ma túy để sử dụng. Khi đến kh vực cầu G thuộc tổ 7, phường T, thành phố P, Đ gặp một người đàn ông khoảng 40 tuổi (Đ không rõ tên tuổi cụ thể của người này) hỏi mua 600.000đ ma túy, người đó đồng ý, Đ đưa cho người đó 600.000đ, người đó cầm tiền và đưa cho Đ 07 gói giấy bạc màu vàng. Biết các gói đó là ma túy nên Đ không mở ra kiểm tra mà cầm trong lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe mô tô đi về đến đường L thuộc tổ 2, phường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam thì bị Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Phủ Lý phối hợp với Công an xã P, thành phố P yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Tại chỗ Đ đã tự giáo giao nộp cho lực lượng Công an 07 gói giấy bạc màu vàng, mở ra kiểm tra bên trong dều chứa chất bột màu trắng dạng cục và khai nhận đó là 07 gói ma túy của Đ vừa mua, mục đích để sử dụng. Lực lượng Công an đã đưa Đ cùng tang vật về trụ sở lập biên bản bắt người phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật.
Vật chứng, tài sản thu giữ gồm: 07 gói giấy bạc màu vàng, bên trong đều chứa chất bộ màu trắng dạng cục được niêm phong trong phong bì ký hiệu Qt01;
01 chiếc xe mô tô Biển kiểm soát 36G1 – xxxxx.
Ngày 01/7/2023 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý thi hành lệnh khám xét khẩn cấp đối với chỗ ở của Trương Đăng Đ tại Tổ B, thị trấn B, huyện K, tỉnh Hà Nam, quá trình khám xét không thu giữ tài sản, đồ vật gì liên quan đến vụ án.
Tại bản kết luận giám định số 408/KL-KTHS ngày 06/7/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận “Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,398g loại Heroine.
Tại bản cáo trạng số 108/CT-VKS-PL ngày 12/9/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố Trương Đăng Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam giữ nguyên quan điểm truy tố đối với Trương Đăng Đ như nội dung bản cáo trạng, không thay đổi nội dung gì. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử (viết tắt là HĐXX) tuyên bố bị cáo Trương Đăng Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự, Xử phạt bị cáo Trương Đăng Đ từ 36 đến 42 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số Heroine hoàn trả sau giám định cùng bao gói. Trả lại bà Hoàng Thị T 01 xe mô tô Biển kiểm soát 36G1-xxxxx.
Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng đã truy tối. Bị cáo không có ý kiến tranh luận, bào chữa gì. Đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Bà Hoàng Thị T xác định chiếc xe mô tô cơ quan công an đang thu giữ trong vụ án là của bà, bà không biết Trương Đăng Đ sử dụng xe để phạm tội. Nay bà có nguyện vọng xin lại chiếc xe để làm phương tiện đi làm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Đối với người tham gia tố tụng là người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai và quan điểm của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do vậy, HĐXX vẫn tiến hành xét xử và công bố lời khai của họ theo đúng quy định của pháp luật.
[3] Về tội danh: Bị cáo Trương Đăng Đ đã khai, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng, bản kết luận giám định, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy Hội đồng xét xử có đủ chứng cứ buộc tội kết luận: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 01/7/2023 tại đường L tổ 2, phường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam, Trương Đăng Đ đang cất giữ trái phép 0,398 gam ma túy, loại Heroine mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang. Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Cáo trạng truy tố và lời buộc tội của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, phù hợp với quy định của pháp luật.
[4] Về nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã phải đi cai nghiện bắt buộc thời hạn hai năm từ năm 2013, và có tiền án chưa được xóa án tích liên quan đến ma túy, nay lại phạm tội về ma túy, thể hiên bị cáo coi thường pháp luât, khó cải tạo bản thân.
Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, hiện có mẹ đẻ là người già yếu và hai con đang ăn học được chính quyền địa phương xác nhận. Từ những tình tiết nêu trên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo có một tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nay lại phạm tội với lỗi cố ý nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm do đó phải chịu một tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
[5] Về hình phạt:
Hình phạt chính: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo thực hiện với lỗi cố ý, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy và các chất gây nghiện, làm mất trật tự trị an trong xã hội và là nguyên nhân phát sinh nhiều hành vi vi phạm pháp luật khác. Vì vậy việc xét xử nghiêm minh hành vi phạm tội nàu là cần thiết với mức hình phạt tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện. Do vậy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung trong cộng đồng.
Hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ ma túy, mục đích bị để sử dụng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Xử lý vật chứng và các tài sản đã thu giữ:
Đối với số ma túy loại Heroine hoàn trả sau giám định cùng bao gói là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với chiếc xe mô tô Biển kiểm soát 36G1-xxxxx quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của bà Hoàng Thi T là mẹ đẻ của bị cáo. Ngày 01/7/2023 bà T cho bị cáo mượn chiếc xe trên để đi nhưng không biết bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội nên cần trả lại chiếc xe trên cho chủ sở hữu hợp pháp là bà Hoàng Thị T.
[7] Về vấn đề khác của vụ án:
Về nguồn gốc số ma túy thu giữ và người bán ma túy cho bị cáo. Quá trình điều tra bị cáo khai số ma túy trên là của một người đàn ông khoảng 40 tuổi ở khu vực cầu thuộc tổ 7, phường T, thành phố P đưa cho bị cáo. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý đã phối hợp với Công an phường T, xác minh nhưng không xác định được người đã đưa ma túy cho bị cáo. Ngoài lời khai của bị cáo không còn tài liệu, chứng cứ nào khác nên Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Phủ Lý không có căn cứ để xử lý trong vụ án này.
[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.
[9] Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thực hiện theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1, Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 47, Điều 50 Bộ luật Hình sự.
Căn cứ các Điều 106; 136; 331; 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Căn cứ Luật Phí và Lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1/ Tuyên bố bị cáo Trương Đăng Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2/ Xử phạt bị cáo Trương Đăng Đ 39 (ba mươi chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 01/7/2023.
3/ Xử lý vật chứng:
- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì đã niêm phong dán kín mặt trước ghi “Mẫu vật hoàn trả QT01 số 408/KTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam.
- Trả lại bà Hoàng Thị T 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 36G1-xxxxx số máy HC12E5719736, số khung RLHHC1218DY719686.
(Tình trạng đặc điểm vật chứng như trong biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 14/9/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý.
4/ Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Trương Đăng Đ phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).
Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành bản án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 107/2023/HS-ST
Số hiệu: | 107/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 02/10/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về