TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 106/2024/HS-ST NGÀY 10/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 10 tháng 4 năm 2024 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 107/2024/HSST ngày 14 tháng 03 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 116/2024/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 03 năm 2024 đối với bị cáo:
Họ và tên: Lò Văn D, sinh năm 2000, tại Sông Mã, Sơn La.
Nơi cư trú: Bản Nà Ngh II, xã Nà Ngh, huyện Sông M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn B và bà Lò Thị L; bị cáo có vợ là Lò Thị H và 01 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: tốt; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/12/2023 cho đến nay; có mặt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Lò Thị H, sinh năm 2004; Bản Nà Ngh II, xã Nà Ngh, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La; có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 15 giờ 05 phút ngày 15/12/2023 tổ công tác Công an xã Huổi Một làm nhiệm vụ phòng, chống ma túy tại bản Pa Tết, xã Huổi Một, Sông Mã phát hiện một nam thanh niên điều khiển xe gắn máy có BKS 26AA-202.4x lưu thông trên đường có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy, tổ công tác đã yêu cầu dừng xe để kiểm tra, người thanh niên khai nhận là Lò Văn D, sinh năm 2000, trú tại bản Nà Ngh 2, xã Nà Ngh, Sông Mã. Tổ công tác yêu cầu D nếu có cất giấu đồ vật vi phạm pháp luật thì giao nộp, D đã lấy từ lỗ chân gương bên trái xe gắn máy ra 01 gói nilon màu hồng bên trong chứa chất bột liên kết màu trắng, D khai nhận là Heroine. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với D, thu giữ vật chứng nghi ma túy. Ngoài ra, còn tạm giữ của D 01 xe gắn máy nhãn hiệu Espero màu nâu có BKS 26AA-202.4x, đã qua sử dụng.
Ngày 16/12/2023, tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Sông Mã đã tiến hành mở niêm phong, cân tịnh xác định khối lượng vật chứng và trích mẫu giám định đối với vật chứng nghi là ma túy thu giữ của D, kết quả: Số chất bột liên kết màu trắng có khối lượng là 0,12 gam, đã sử dụng hết làm mẫu giám định ký hiệu D.
Kết luận giám định số 59/KL-KTHS ngày 20/12/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận:
“Mẫu ký hiệu D gửi giám định là ma túy; Loại Heroine (Heroin); có tên khoa học là Diacetylmorphine, được quy định tại Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,12 gam.
Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,12 gam loại Heroine (Heroin), có tên khoa học là Diacetylmorphine, được quy định tại Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất”.
Quá trình điều tra bị cáo Lò Văn D khai nhận hành vi phạm tội như sau: Lò Văn D là phụ xe khách tuyến Sốp Cộp – Hà Nội. Khoảng 13 giờ 30 ngày 15/12/2023 D đem theo số tiền 100.000đ điều khiển xe máy có BKS 26AA- 202.4x từ bến xe khách huyện Sốp Cộp đến bản Co Mạ, xã Huổi Một, Sông Mã để tìm mua ma túy sử dụng. Khi đến nơi, D gặp một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết đang đi bộ trên đường, D nói chuyện và hỏi mua ma túy thì người này nói có bán, D đưa cho phụ nữ này số tiền 100.000đ, người phụ nữ nhận tiền và bảo D đứng đợi rồi người này đi đâu không rõ. Khoảng 15 phút sau, người phụ nữ người dân tộc Mông quay lại đưa cho D 01 gói nilon màu hồng nói bên trong chứa 01 viên Hồng phiến và Heroine, D nhận lấy gói ma túy rồi đi vào nương sắn gần đó bỏ 01 viên Hồng phiến ra sử dụng bằng hình thức hít qua đường hô hấp. Sau khi sử dụng ma túy xong, D gói số Heroine còn lại rồi cất vào lỗ ốc vít để gắn gương bên trái của xe máy rồi điều khiển xe vào huyện Sốp Cộp, khi đi đến khu vực bản Pa Tết, xã Huổi Một thì bị tổ công tác Công an xã Huổi Một làm nhiệm vụ phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.
Cáo trạng số 51/CT-VKSSM ngày 13 tháng 03 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử bị cáo Lò Văn D về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo Lò Văn D đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật viện dẫn áp dụng như nội dung bản Cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử Tuyên bố bị cáo Lò Văn D phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Lò Văn D từ 01 năm 04 tháng đến 01 năm 10 tháng tù.
Đề nghị HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị: Tịch thu để tiêu hủy 01 túi nilon màu hồng; 01 phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở.
Trả lại cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Lò Thị H 01 chiếc xe máy nhãn hiệu ESPERO, màu sơn nâu, có BKS 26AA-202.4x.
Về án phí: Đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định. Bị cáo Lò Văn D không có ý kiến gì đối đáp với lời luận tội của Kiểm sát viên, khi được nói lời sau cùng, bị cáo chỉ xin được giảm nhẹ hình phạt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Lò Thị H đề nghị HĐXX xem xét xin được trả lại chiếc xe mô tô.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra và kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ và toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, ý kiến của người liên quan, các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh và điều luật áp dụng: Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Vật chứng thu giữ trong vụ án; Kết luận giám định và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Ngày 15/12/2023 bị cáo Lò Văn D đã có hành vi tàng trữ 0,12 gam ma túy, loại Heroine, mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ.
Tại phiên toà bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi, vẫn giữ nguyên lời khai như đã khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án và hoàn toàn nhất trí với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc đã thực hiện. Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố bị cáo về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự; phát biểu luận tội của của Kiểm sát viên tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị mức xử phạt tù giam đối với bị cáo về tội danh nêu trên là phù hợp, có căn cứ, đúng người, đúng pháp luật.
Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi mà bị cáo Lò Văn D thực hiện đã phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
[3] Về tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình là vi phạm điều cấm của pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện, thể hiện sự coi thường pháp luật, vi phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương nên cần xử lý nghiêm.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân:
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt thể hiện ở việc bị cáo chưa có tiền án tiền sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5] Về hình phạt chính: Căn cứ tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo; khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ; các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nhân thân của bị cáo, xét thấy cần áp dụng hình phạt tù giam đối với bị cáo và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội cũng như công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
[6] Về hình phạt bổ sung là phạt tiền: Hội đồng xét xử thấy bị cáo không có tài sản, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Về các vấn đề có liên quan: Đối với người phụ nữ dân tộc Mông không rõ danh tính là người đã bán ma tuý cho bị cáo tại bản Co Mạ, xã Huổi Một, huyện Sông Mã vào ngày 15/12/2023. Do không xác định được họ tên đầy đủ và địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án này.
[8] Về xử lý vật chứng:
- Đối với 01 túi nilon màu hồng và 01 phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở là vật không có giá trị sử dụng, nên cần tịch thu để tiêu hủy.
- Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu ESPERO, màu sơn nâu, có BKS 26AA- 202.4x tạm giữ của D khi bắt quả tang. Qua điều tra, xác minh xác định chiếc xe đăng ký mang tên Lò Văn Hiệp trú tại bản Nà Ngh, xã Nà Ngh, Sông Mã, chiếc xe là tài sản chung hợp pháp của bị can Lò Văn D và vợ là Lò Thị H, được bị can cùng vợ mua lại xe cũ của anh Hiệp vào đầu năm 2023. Kết quả tra cứu chiếc xe không thuộc vật chứng của vụ án khác. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Lò Thị H (vợ của bị cáo D) trình bày: Chiếc xe mô tô nêu trên là tài sản chung của vợ chồng mua lại, nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Ngày 15/12/2023 bị cáo Lò Văn D (chồng của chị) sử dụng chiếc xe mô tô và có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy bị công an bắt giữ và thu giữ chiếc xe mô tô thì chị không biết. Chị Lò Thị H đề nghị xin được trả lại chiếc xe mô tô, nên HĐXX cần chấp nhận và trả lại 01 chiếc xe mô tô có đặc điểm nêu trên cho chị Lò Thị H.
[9] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, nên được xem xét miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh và hình phạt:
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
- Tuyên bố bị cáo Lò Văn D phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Xử phạt bị cáo Lò Văn D 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/12/2023.
- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
2. Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu để tiêu hủy 01 mảnh nilon màu hồng và 01 phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở (các vật chứng được đựng trong một phong bì thư do Bưu điện Việt Nam phát hành được niêm phong, giấy dán niêm phong có mã số 0003420).
- Trả lại cho người có quyền lợi ngĩa vụ liên quan: Chị Lò Thị H 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu ESPERO, màu sơn nâu, biển kiểm soát 26AA-202.4x, số khung: B4PELA809514, số máy: 39FMB3809514.
Theo Quyết định chuyển vật chứng số: 46/QĐ-VKS ngày 12/03/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã và Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản lập hồi 09 giờ 15 phút ngày 29 tháng 03 năm 2024 giữa Công an huyện Sông Mã và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã.
3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc hội. Bị cáo Lò Văn D được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 10/4/2024).
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 106/2024/HS-ST
Số hiệu: | 106/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/04/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về