TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KỲ SƠN - TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 104/2022/HSST NGÀY 21/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 21 tháng 9 năm 2022, tại Nhà văn hóa bản Hòa Sơn, xã Tà Cạ, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An, Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 105/2022/TLST-HS ngày 07 tháng 9 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 127/2021/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 9 năm 2022 đối với:
Bị cáo: Lƣơng Tháo P, tên gọi khác: Không; sinh ngày 08/10/1944 tại xã M, huyện K, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: bản P, xã M, huyện K, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Mù chữ; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Tháo T (Đã chết) và bà Lương Thị T (Đã chết); vợ: Kha Thị K (Đã chết) và 05 (Năm) con; tiền sự, tiền án: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/7/2022 đến ngày 03/8/2022 thì được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện đang tại ngoại. Vắng mặt (Bị cáo có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
Người bào chữa cho bị cáo: Bà Võ Thị Hoài-Trợ giúp viên thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nghệ An. Có mặt.
Người chứng kiến: Anh Lô Văn T; sinh năm 1986; nơi cư trú: Bản X, xã M, huyện K, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 14 giờ, ngày 25/7/2022, Lương Tháo P đang đi bẫy chuột tại khu vực rừng thuộc bản P, xã M, huyện K, tỉnh Nghệ An thì gặp một người đàn ông không quen biết, sau đó Lương Tháo P đã hỏi mua của người này 48 (Bốn mươi tám) viên ma túy tổng hợp với số tiền 500.000 đồng (Năm trăm nghìn). Mua được ma túy, Lương Tháo P cất giấu trong người rồi đi bộ về nhà. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, Lương Tháo P lấy 02 (hai) viên ma túy ra sử dụng, số còn lại Lương Tháo P gói lại như cũ đem cất giấu tại túi quần đang mặc. Đến khoảng 09 giờ 30 phút, ngày 26/7/2022, Lương Tháo P đang ở khu vực bản P, xã M, huyện K, tỉnh Nghệ An thì bị tổ công tác Công an xã Mỹ Lý phối hợp với Đồn Biên phòng Mỹ Lý- Bộ đội Biên phòng tỉnh Nghệ An phát hiện, bắt quả tang thu giữ tại túi quần đang mặc của bị cáo Lương Tháo P 01 (một) bao potylen màu xanh bên trong có 42 (Bốn mươi hai) viên nén màu hồng (Nghi là ma túy) và 04 (Bốn) viên nén màu xanh (Nghi là ma túy).
Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong lại vào hồi 17 giờ, ngày27/6/2022 đã xác định: 42 (Bốn mươi hai) viên nén màu hồng (Nghi là ma túy) thu giữ của Lương Tháo P có tổng khối lượng 3,9 gam (Ba phẩy chín), ký hiệu là vật chứng số 1; 04 (Bốn) viên nén màu xanh (Nghi là ma túy) thu giữ của Lương Tháo P có tổng khối lượng 0,35 gam (Không phẩy ba mươi lăm), ký hiệu là vật chứng số 2.
Kết luận giám định số 1045/KL-KTHS (Đ2-MT) ngày 02/8/2022của Phòng kỹthuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu viên nén màu hồng (ký hiệu M1) và mẫu viên nén màu xanh (ký hiệu M2) thu giữ của Lương Tháo P gửi tới giám định đều là ma túy (Methamphetamine).
Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Kỳ Sơn, Lương Tháo P đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, mục đích tàng trữ số ma túy trên là để sử dụng.
Về vật chứng của vụ án: Số ma túy (Methamphetamine) là vật chứng có khối lượng còn lại3,7 gam (Ba phẩy bảy) và vỏ giấy niêm phong ban đầu hiện đã được Cơ quan điều tra chuyển sang Chi cục thi hành án dân sự huyện Kỳ Sơn bảo quản theo quy định.
Cáo trạng số: 83/CT-VKS-KS ngày 06/9/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn đã truy tố bị cáo Lương Tháo Pvề tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lương Tháo P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm o, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lương Tháo P mức án từ 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng đến 04 (Bốn) năm tù; về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo; về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma tuý (Methamphetamine) là vật chứng còn lại có khối lượng 3,7 gam (Ba phẩy bảy) và vỏ giấy niêm phong ban đầu; về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Người bào chữa cho bị cáo trình bày: Về tội danh và điều luật áp dụng đồng ý với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát. Căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, trình độ dân trí thấp, nhận thức pháp luật còn nhiều hạn chế, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo,xử phạt bị cáo mức án thấp nhất mà đại diện Viện Kiểm Sát đã đề nghị, miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dụng vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của hành vi tố tụng và quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Bị cáo không có ý kiến gì khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Điều tra viên; Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp và đúng quy định pháp luật.
[2] Về việc vắng mặt của người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa, vắng mặt bị cáo và người chứng kiến mặc dù đã được tống đạt hợp lệ văn bản tố tụng của Tòa án. Tuy nhiên, bị cáo đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt do bị ốm; người chứng kiến vắng mặt không có lý do nhưng đã có lời khai đầy đủ tại hồ sơ vụ án. Do sự vắng mặt này không ảnh hưởng đến việc xét xử nên Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử xét xử vắng mặt bị cáo, người chứng kiến là có căn cứ, đúng quy định tại điểm c khoản 2 Điều 290 và Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[3] Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Lương Tháo P vắng mặt, tuy nhiên trong quá trình điều tra, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ vụ án, phù hợp với Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 09 giờ 30 phút, ngày 26/7/2022, tại khu vực bản P, xã M, huyện K, tỉnh Nghệ An, Lương Tháo P đang có hành vi tàng trữ trái phép 4,25 gam (Bốn phẩy hai mươi lăm) ma túy (Methamphetamine) nhằm mục đích để sử dụng, hành vi đó của bị cáo Lương Tháo P đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm;
a)……………………………………………………….
c) Methamphetaminecó khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.
[4] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; nhân thân người phạm tội và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Vụ án thuộc trường hợp nghiêm trọng. Hành vi phạm tội nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các loại chất gây nghiện. Khi phạm tội bị cáo cũng nhận thức được ma túy là chất gây nghiện bị Nhà nước cấm vì ma túy gây tác hại xấu đến đời sống kinh tế xã hội cũng như sức khỏe của con người và cũng làm mầm mống phát sinh các tệ nạn xã hội và các tội phạm khác, nhưng bị cáo vẫn bất chấp pháp luật để tàng trữ trái phép làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Vì vậy, hành vi đó phải được xử lý nghiêm minh, cần tuyên phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc, tương xứng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện, việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là cần thiết, có như vậy mới đủ điều kiện để vừa tiếp tục cải tạo, giáo dục riêng bị cáo vừa răn đe phòng ngừa chung.
Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo sinh năm 1944, tính đến thời điểm phạm tội, bị cáo đã 78 tuổi nên bị cáo được hưởng tình tiết “Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên”; trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm o và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, không có thu nhập, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.
[6] Các đối tượng liên quan: Trong vụ án này, có người đàn ông đã đã bán ma túy cho Lương Tháo P, quá trình điều tra, xác minh chưa xác định được danh tính cụ thể nên Cơ quan cảnh sát điều tra đang tiếp tục điều tra, xác minh, khi nào có kết quả sẽ xử lý sau.
[7]Về vật chứng vụ án: Số ma tuý (Methamphetamine) là vật chứng còn lại có khối lượng 3,7 gam (Ba phẩy bảy) và vỏ giấy niêm phong ban đầu, đây là vật Nhà nước cấm lưu hành, tàng trữ nên cần phải tịch thu, tiêu hủy.
[8]Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm. [9] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh và mức hình phạt:
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm o, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố bị cáo Lương Tháo P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Lương Tháo P 03 (Ba) năm 09 (Chín) tháng tù.Thời hạn chấp hành hình tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án nhưng được trừ thời gian mà bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam trước đó từ ngày 26/7/2022 đến ngày 03/8/2022.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy: 01 (Một) phong bì thư màu trắng góc trái phía bên trên có dòng chữ “CÔNG AN TỈNH NGHỆ AN, CÔNG AN HUYỆN KỲ SƠN” đang niêm phong, dán kín. Trên mép dán có đầy đủ chữ ký của Hội đồng tham gia niêm phong và dấu điểm chỉ của bị cáo Lương Tháo P, bên trong có chứa 3,7 gam (Ba phẩy bảy) ma túy (Methamphetamine) và vỏ giấy niêm phong ban đầu. (Vật chứng đang do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kỳ Sơn quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/9/2022 giữa Công an huyện Kỳ Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kỳ Sơn).
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Lương Tháo P phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 104/2022/HSST
Số hiệu: | 104/2022/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kỳ Sơn - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về