Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 104/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HOÀ BÌNH, TỈNH HÒA BÌNH

 BẢN ÁN 104/2021/HS-ST NGÀY 28/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 107/2021/TLST-HS ngày 18 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 116/2021/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Bị cáo: BÙI VĂN B Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; sinh năm 1997 Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: xóm V, xã C, huyện K, tỉnh Hòa Bình.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 08/12. Dân tộc: Mường; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Bùi Văn M, sinh năm 1967 và bà Bùi Thị N, sinh năm 1961; Vợ: Bùi Thị X, sinh năm 2001. Gia đình bị cáo có 04 anh em, bị cáo là con thứ tư trong gia đình.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/5/2021, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hòa Bình, nay được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bùi Văn B là đối tượng nghiện ma túy, do có nhu cầu sử dụng nên khoảng 12 giờ 30 phút ngày 26/5/2021, Bùi Văn B gặp Đinh Thế D, sinh năm 2005, trú tại xóm Đ, xã M, huyện K, tỉnh Hòa Bình hỏi mượn xe mô tô BKS 28H1-575.49 của D để lên thị trấn B, huyện K, tỉnh Hòa Bình đóng tiền trả góp mua điện thoại. Tại đây B gặp một người đàn ông nghiện ma túy, qua trao đổi B xin được số điện thoại của người đàn ông tên L ở thành phố H. Sau đó B điều khiển xe mô tô lên thành phố H để tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân, khi đi đến khu vực chân dốc C, B gọi điện cho L hỏi mua 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) ma túy. L đồng ý và hướng dẫn cho B đi vào một ngõ nhỏ, sau đó B đưa cho L 3.000.000 đồng, L nhận và bảo B đến khu vực nghĩa trang phường T đợi có người sẽ mang ma túy ra sau. Sau khi đợi tại chỗ hẹn khoảng 10 phút thì một người đàn ông điều khiển xe máy đến và đưa cho B 01 gói ma túy.Sau khi nhận ma túy, B cất vào rãnh bên phải của yên xe mô tô BKS 28H1-575.49 rồi điều khiển xe đi về nhà. Khi đi đến khu vực tổ 04, phường T, thành phố H thì bị Tổ công tác Công an thành phố Hòa Bình phát hiện và bắt quả tang về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Cơ quan Công an đã thu giữ, niêm phong vật chứng và đưa B về trụ sở làm việc theo quy định của pháp luật.

Tại Bản Kết luận giám định số: 159/KLGĐ-CAT-PC09 ngày 02/6/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hòa Bình kết luận:

“Chất bột dạng cục màu trắng trong phong bì niêm phong một mặt có ghi “Phong bì niêm phong vật chứng, thuộc vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy, đối tượng bị bắt Bùi Văn B, sinh năm 1997, HKTT: thôn V, xã C, huyện K, tỉnh Hòa Bình, ngày bắt 26/5/2021 tại tổ 4, phường T, thành phố H, tỉnh Hòa Bình” gửi giám định có khối lượng 3,18g (Ba phẩy mười tám gam), là ma túy, loại Heroine”.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ và phù hợp với nội dung của bản Cáo trạng.

Tại bản Cáo trạng số: 102/CT-VKS ngày 16/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hòa Bình truy tố Bùi Văn B về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hòa Bình luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản Cáo trạng. Đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng; giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nhân thân bị cáo. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố Bùi Văn B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” xử phạt Bùi Văn B từ 36 đến 42 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị tịch thu, tiêu huỷ 01 (Một) phong bì niêm phong mẫu giám định ma túy, hoàn trả sau giám định.

Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu bạc, bên trong có sim điện thoại, đã qua sử dụng, xét bị cáo sử dụng điện thoại vào mục đích mua ma túy nên đề nghị tịch thu, phát mại nộp ngân sách nhà nước.

Đối với 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA loại xe WINNER, BKS: 28H1-575.49, số khung RLHKC37MY107333, số máy: KC34E1225132, xe đã qua sử dụng. Quá trình điều tra xác định chiếc xe trên là của bà Bùi Thị T, sinh năm 1971, trú tại thôn Đ, xã M, huyện K, tỉnh Hòa Bình. Ngày 26/5/2021 con trai bà Thiệp là Đinh Thế D có mược xe đi chơi và gặp Bùi Văn B. Sau đó B mượn xe của D để đi mua ma túy. Việc B mượn xe đi mua ma túy D không biết và không liên quan. Cơ quan cảnh sát điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trao trả chiếc xe trên cho chủ sở hữu hợp pháp.

Bị cáo phải nộp án phí HSST.

Bị cáo không có tranh luận gì.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã nhận thức rõ hành vi của bản thân là vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi của bị cáo: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thừa nhận đã có hành vi tàng trữ trái phép 3,18g (ba phẩy mười tám gam) ma túy loại Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, bị tổ công tác Công an thành phố Hòa Bình phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản kết luận giám định cũng như các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án. Do vậy có đủ cơ sở kết luận bị cáo Bùi Văn B đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân TP Hòa Bình truy tố là có căn cứ, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất gây nghiện của nhà nước, góp phần làm gia tăng tệ nạn ma túy, gây mất trật tự trị an trên địa bàn thành phố Hòa Bình.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Trước cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải. Đó là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện cũng như nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo xét thấy cần có mức hình phạt tù tương xứng, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo cũng như răn đe phòng ngừa tội phạm chung.

Xem xét về nhân thân và điều kiện kinh tế của bị cáo: Bị cáo là đối tượng nghiện hút, không có công việc ổn định, không có tài sản gì nên Hội đồng xét xử thấy không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4]. Về các hành vi, tình tiết khác của vụ án:

Về nguồn gốc số ma túy bị cáo khai mua của một người đàn ông tên L và người đàn ông nghiện ma túy mà Bùi Văn B gặp để xin số điện thoại L, quá trình điều tra không rõ tên, tuổi, địa chỉ và hành vi cụ thể. Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục xác minh, thu thập chứng cứ, khi nào có đủ căn cứ sẽ xử lý trong một vụ án khác.

[5]. Về xử lý vật chứng:

- 01(Một) phong bì niêm phong vật chứng hoàn trả sau giám định chất ma túy mang tên Bùi Văn B, mép dán niêm phong có dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hòa Bình và chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong. Đây là số ma túy thu giữ của bị cáo, nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu bạc, đã qua sử dụng, xét thấy bị cáo sử dụng điện thoại vào mục đích mua ma túy nên cần tịch thu, phát mại nộp ngân sách nhà nước theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Đối với 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda loại xe WINNER, BKS: 28H1- 575.49, số khung RLHKC37MY107333, số máy: KC34E1225132, xe đã qua sử dụng. Quá trình điều tra Cơ quan công an xác định chủ sở hữu là Bùi Thị T, sinh năm 1971, trú tại thôn Đ, xã M , huyện K, tỉnh Hòa Bình. Ngày 26/5/2021 con trai bà T là Đinh Thế D có mược xe đi chơi và gặp Bùi Văn B. Sau đó B mượn xe của D để đi mua ma túy. Việc B mượn xe đi mua ma túy D không biết và không liên quan. Cơ quan cảnh sát điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trao trả chiếc xe trên cho chủ sở hữu hợp pháp là thỏa đáng.

Các vật chứng của vụ án được ghi chi tiết trong nội dung Biên bản giao nhận vật chứng số: 125 /BB ngày 16/9/2021 giữa Công an thành phố Hòa Bình và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hoà Bình.

[6]. Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Bùi Văn B phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” Xử phạt: Bùi Văn Bình 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26/5/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu huỷ: 01(Một) phong bì niêm phong vật chứng hoàn trả sau giám định chất ma túy mang tên Bùi Văn B, mép dán niêm phong có dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hòa Bình và chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong.

Tịch thu phát mại sung quỹ nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu bạc, đã qua sử dụng.

Các vật chứng của vụ án được ghi chi tiết trong nội dung Biên bản giao nhận vật chứng số: 125/BB ngày 16/9/2021 giữa Công an thành phố Hòa Bình và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hoà Bình.

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Bùi Văn B phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 104/2021/HS-ST

Số hiệu:104/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hòa Bình - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về