Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 103/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 103/2021/HS-ST NGÀY 27/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 12 năm 2021 tại Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 96/2021/TLST-HS ngày 26 tháng 11 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 105/2021/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo:

NGUYỄN NGỌC QU, sinh ngày 26 tháng 7 năm 2002 tại xã M, huyện Y, tỉnh Phú Thọ; Trú tại: Khu Ph (Khu 7), xã M, huyện Y, tỉnh Phú Thọ; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: Lớp 6/12; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Quý C và bà Nguyễn Thị Ch; Vợ, con: Chưa có; Tiền án; Tiền sự: Không. Nhân thân: Tốt.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 26/9/2021 đến ngày 04/10/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn, áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Danh S - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước TP Hà Nội (Có mặt)

Người làm chứng:

- Anh Dương Văn D, sinh năm 2002 (Vắng mặt) Địa chỉ: Thôn B, xã Th, huyện P, TP Hà Nội

- Anh Hoàng Trọng Đ, sinh năm 1979 (Vắng mặt) Quê quán: Xã H, huyện H, tỉnh Nam Định Trú tại: Thôn B, xã Th, huyện P, TP Hà Nội

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 00 ngày 25/9/2021, Nguyễn Ngọc Qu đang ở nhà thì có Kh (là bạn bè xã hội, không rõ cụ thể nhân thân lai lịch, chỉ biết quê ở xã Ng, huyện Y, tỉnh Phú Thọ) đến nhà rủ Qu đến huyện Th, tỉnh Phú Thọ để chơi với bạn của Kh (Qu không biết tên tuổi, địa chỉ người đàn ông này). Khi gặp nhau, Qu cùng Kh và bạn của Kh ngồi uống nước một lúc thì Kh đi về trước. Lúc này bạn của Kh rủ Qu xuống huyện B, Thành phố Hà Nội chơi. Sau đó, người này điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda loại xe SH màu đen (không nhớ biển kiểm soát) chở Qu xuống huyện B. Tại đây, Qu có gặp 02 người bạn của người đàn ông này (Qu không biết tên tuổi, địa chỉ người đàn ông này). Một trong 02 người đàn ông này (người đầu trọc) rủ Qu và 02 người đàn ông (có đặc điểm nêu trên) sử dụng ma túy. Sau khi sử dụng ma túy xong, người đàn ông đầu trọc lấy 01 túi nilong nhỏ trong suốt bên trong có ma túy để vào bao thuốc lá Thăng Long và bảo Qu cầm về sử dụng. Qu liền cất bao thuốc lá Thăng Long bên trong có chứa gói ma túy đá vào túi áo khoác phía trong bên trái đang mặc. Sau đó, người đàn ông mặc quần áo màu đỏ về trước, còn người đàn ông đầu trọc chở Qu và bạn của Kh đến xã Th, huyện P lấy tiền cho Qu mượn để chuộc điện thoại vì trước đó, khi Kh chở Qu đi thì xe của Kh bị hỏng phải sửa mà không có tiền trả nên Qu đã cắm điện thoại để lấy tiền sửa xe. Khi đến xã Th, huyện P thì Qu xuống xe đứng đợi ở ngõ Ph 2, thôn B, xã Th, huyện P, Thành phố Hà Nội, còn người đàn ông đầu trọc và bạn của Kh đi lấy tiền. Qu đang đứng đợi thì gặp Công an xã Th đi tuần tra làm nhiệm vụ đảm bảo trật tự trong công tác phòng chống dịch Covid-19, do Qu đeo khẩu trang không đúng qui định nên lực lượng Công an yêu cầu kiểm tra hành chính, biết không thể trốn tránh được nên Qu đã tự giác giao nộp 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng bên trong có 01 túi nilong trong suốt chứa tinh thể màu trắng, Qu khai nhận là ma túy đá, mục đích để sử dụng cá nhân. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ niêm phong vật chứng theo đúng quy định. (Bút lục 30, 31, 76 - 102).

Vật chứng thu giữ:

- 01 (một) túi nilong trong suốt kích thước (02x02)cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng (được niêm phong trong phong bì dán kín);

- 01 (một) vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng.

Ngày 26/9/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phúc Thọ ra lệnh khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Ngọc Qu tại Khu 7, xã M, huyện Y, tỉnh Phú Thọ. Quá trình khám xét không phát hiện, thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan đến vụ án. (Bút lục 45 - 46).

Tại bản kết luận giám định số 7081/KLGĐ – PC09 ngày 03/10/2021, Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hà Nội, kết luận: “Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilong là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,443 gam”. (Bút lục 51).

* Về nguồn gốc ma túy: Nguyễn Ngọc Qu khai, số ma túy thu giữ khi bắt quả tang là của người đàn ông không rõ nhân thân lai lịch, chỉ biết đặc điểm người đầu trọc, cao khoảng 1m75, mặc quần dài màu đen, áo cộc màu trắng cho Qu số ma túy trên. Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh làm rõ, vì vậy không đề cập xử lý trong vụ án này.

* Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 (một) phong bì niêm phong của phòng PC09 Công an thành phố Hà Nội, bên trong chứa mẫu vật chứng, bên ngoài có chữ ký của Giám định viên, đương sự Nguyễn Ngọc Qu và cán bộ Công an xã Th; 01 (một) vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, chuyển đến kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phúc Thọ để bảo quản, chờ xử lý theo quy định.

Tại bản Cáo trạng số: 94/CT-VKSPT ngày 24 tháng 11 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc Qu về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, Kiểm sát viên phát biểu quan điểm giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo. Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 (do bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn) Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc Qu từ 15 đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án, được trừ thời gian đã tạm giữ.

Do bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với các bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên tịch thu tiêu hủy đối với:

- Một phong bì niêm phong của phòng PC09- Công an TP Hà Nội bên trong chứa mẫu vật chứng, bên ngoài có chữ ký của giám định viên, của Nguyễn Ngọc Qu và chữ ký của cán bộ công an xã Th;

- Một vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày quan điểm: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, trình độ học vấn thấp, nhận thức pháp luật hạn chế, do vậy đề nghị HĐXX cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất của khung hình phạt.

Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là đúng, bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là sai, có ăn năn hối cải về hành vi của mình nên xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt ở mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2]. Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ. Như vậy, có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử kết luận:

Khoảng 17 giờ 20 phút, ngày 25/9/2021, Nguyễn Ngọc Qu có hành vi cất giấu 01 gói ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,443 gam, mục đích để sử dụng cá nhân, bị Công an xã Th phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng, tại ngõ Ph 2, thôn B, xã Th, huyện P, Thành phố Hà Nội.

Hành vi nêu trên của Nguyễn Ngọc Qu đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phúc Thọ truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất mức độ của vụ án: Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý chất ma túy của Nhà nước, làm mất trật tự trị an ở địa phương. Do vậy, cần phải xử lý với mức hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo để răn đe, giáo dục các bị cáo nói riêng và phòng ngừa tội phạm nói chung.

Đối với người đàn ông đã cung cấp ma túy cho Qu: Qu không rõ nhân thân lai lịch người này, chỉ biết đặc điểm người đầu trọc, cao khoảng 1m75, mặc quần dài màu đen, áo cộc màu trắng. Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh làm rõ, vì vậy không có căn cứ để xử lý trong vụ án này.

[4]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có [5]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; Bị cáo người dân tộc thiểu số, sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6]. Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

[7]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người lao động tự do, không có thu nhập ổn định, không có điều kiện về kinh tế để thi hành án nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền.

[8]. Về xử lý vật chứng: Đối với các vật chứng là:

- Một phong bì niêm phong của phòng PC09- Công an TP Hà Nội bên trong chứa mẫu vật chứng, bên ngoài có chữ ký của giám định viên, của Nguyễn Ngọc Qu và chữ ký của cán bộ công an xã Th;

- Một vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng Do không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[9]. Về án phí: Bị cáo có đề nghị xin miễn án phí và đủ điều kiện được miễn án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

[10]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. - Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc Qu 15 (Mười lăm) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án, được trừ thời gian 09 ngày đã tạm giữ từ ngày 26/9/2021 đến ngày 04/10/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy đối với:

- Một phong bì niêm phong của phòng PC09- Công an TP Hà Nội bên trong chứa mẫu vật chứng, bên ngoài có chữ ký của giám định viên, của Nguyễn Ngọc Qu và chữ ký của cán bộ công an xã Thọ Lộc;

- Một vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng.

(Vật chứng được lưu tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/11/2021).

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 103/2021/HS-ST

Số hiệu:103/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phúc Thọ - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về