Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 102/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÔNG HÀ, TỈNH QUẢNG TRỊ

 BẢN ÁN 102/2021/HS-ST NGÀY 15/10/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 94/2021/TLST-HS ngày 31/8/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 97/2021/QĐXXST-HS ngày 07/9/2021 và Thông báo mở lại phiên tòa số: 565/TB-TA ngày 07/10/2021, đối với bị cáo:

Lê H, tên gọi khác: Bi; sinh ngày 27/3/1999 tại Thừa Thiên Huế; nơi ĐKHKTT: Thôn T, xã P, huyện PV, tỉnh Thừa Thiên Huế; chỗ ở: Khu phố M, Phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị; trình độ học vấn: 10/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Lê K (đã chết) và bà Trần Thị Minh C, sinh năm 1962; bị cáo là con duy nhất; bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Quảng Trị từ ngày 01/6/2021 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 11 giờ ngày 01/06/2021, Lê H đi đến trước khu vực đường Đặng Thái Thân (thuộc khu phố 11, phường 5, thành phố Đông Hà) tìm gặp một người phụ nữ (không rõ lai lịch, địa chỉ) mua 07 được viên ma túy hồng phiến (đựng trong một đoạn ống nhựa màu trắng, được hàn kín hai đầu) với giá 300.000 đồng. Sau khi có ma túy, H cất giấu tại túi quần phía trước bên phải rồi tìm nơi để sử dụng. Khi đi đến trước số nhà 15 đường Đặng Thái Thân thì bị tổ công tác Công an thành phố Đông Hà tiến hành kiểm tra, bắt quả tang và thu giữ toàn bộ số ma túy kể trên.

Theo Kết luận giám định số 620/KLGĐ ngày 07/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị, kết luận: 07 viên nén hình tròn, màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có chữ WY có khối lượng 0,5968 gam, là ma túy loại Methamphetamine.

Cáo trạng số: 101/CT-VKSĐH ngày 31/8/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà đã truy tố bị cáo Lê H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà giữ nguyên nội dung bản Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt Lê H từ 15 (mười lăm) đến 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ 01/6/2021.

Về xử lý vật chứng thu giữ: Đề nghị tịch thu, tiêu hủy 01 bao niêm phong đựng toàn bộ mẫu vật là số ma túy và bao gói hoàn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì có ký hiệu PS3A 103259 có đóng dấu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị.

Bị cáo trình bày lời nói sau cùng: Bị cáo đã nhận ra sai phạm của mình, đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để sớm trở về làm lại cuộc đời, phụng dưỡng mẹ già.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp các các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố và xét xử:

Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an thành phố Đông Hà, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thẩm quyền, trình tự thủ tục tố tụng. Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở khẳng định: Ngày 01/6/2021, Lê H đã có hành vi tàng trữ 0,5968 gam ma túy loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, điều luật có khung hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy, là nguyên nhân gây nên các tệ nạn xã hội và các tội phạm khác, gây mất trật tự trị an địa phương và tâm lý hoang mang lo sợ trong nhân dân. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo với mức hình phạt nghiêm để răn đe, giáo dục, đồng thời góp phần vào công tác phòng, chống và đẩy lùi tội phạm, đặc biệt là tội phạm ma túy.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng.

- Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo nhằm thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước đối với người phạm tội, nhưng phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe và giáo dục.

Tính đến ngày xét xử sơ thẩm thời hạn tạm giam của bị cáo còn dưới 45 ngày nên cần phải ban hành quyết định tạm giam mới.

[5] Về xử lý vật chứng thu giữ: Số ma túy và bao gói hoàn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì có ký hiệu PS3A 103259 có đóng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị, là chất cấm lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy.

[6] Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã áp dụng các biện pháp nghiệp vụ nhưng không xác định được nhân thân, lai lịch của người phụ nữ đã bán ma túy cho bị cáo nên không có cơ sở xử lý.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê H (tên gọi khác: Bi) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Lê H 16 (mười sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ 01/6/2021.

3. Về vật chứng thu giữ: Áp dụng các điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên xử:

Tịch thu, tiêu hủy: 01 bao niêm phong đựng toàn bộ mẫu vật là số ma túy và bao gói hoàn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì có ký hiệu PS3A 103259 có đóng dấu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị. Vật chứng hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đông Hà theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 06/9/2021, giữa cơ quan Điều tra Công an thành phố Đông Hà và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đông Hà.

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, buộc bị cáo Lê H phải chịu số tiền 200.000 đồng án phí hình sự sở thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 102/2021/HS-ST

Số hiệu:102/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đông Hà - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về