Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 10/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 10/2023/HS-ST NGÀY 24/02/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 66/2022/HSST ngày 30 tháng 12 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 03/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo:

PHẠM QUỐC Đ (Minh), sinh năm: 2004 tại tỉnh Bình Thuận. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn V, xã P, huyện P, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: Thợ sắt; trình độ văn hóa: 7/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Huỳnh Linh B và bà Lê Thị Mỹ H; có vợ (Chưa đăng ký kết hôn) và 01 con; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/10/2022, đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện T, tỉnh Ninh Thuận. (Có mặt)

 - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Lê Hiếu V, sinh năm: 1993; nơi cư trú: Khu phố 3, phường M, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 06/10/2022, Phạm Quốc Đ điều khiển xe mô tô hiệu Sirius màu đen, biển kiểm soát: 85B1-xxxxx từ phòng trọ ở Khu công nghiệp Thành Hải thuộc xã T, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận đến nhà vợ ở Khu phố 1, thị trấn L, huyện P, tỉnh Bình Thuận. Khoảng 22 giờ cùng ngày, sau khi nhậu với bạn tại Cụm Ba Nô, thị trấn L, huyện P, tỉnh Bình Thuận xong, do có nhu cầu sử dụng ma tuý đá nên Đ liên hệ với người tên Kh (chưa rõ nhân thân, lai lịch) để mua 200.000 đồng ma tuý đá. Đ sử dụng messenger tên “Q M” nhắn tin cho Kh có messenger tên “T T Kh” với nội dung “anh làm 2x” (nghĩa là mua 200.000 đồng ma tuý đá), Kh đồng ý và trả lời “lên xóm Cốt”. Sau đó Đ dùng số điện thoại 07984xxxxx liên lạc với Kh qua số điện thoại 08652xxxxx, Kh hẹn Đ đến Khu phố 1, thị trấn L, huyện P, tỉnh Bình Thuận để nhận ma tuý, đến chỗ hẹn Kh giao 01 tép ma tuý đá, Đ trả số tiền 200.000 đồng cho Kh, Đ cất giữ tép ma tuý vào ví da màu đen của mình rồi điều khiển xe chạy về lại nhà trọ của ở Khu công nghiệp Thành Hải, khi đến khu vực ngã ba Cà Ná mới thuộc thôn L 2, xã C, huyện T, tỉnh Ninh Thuận thì bị lực lượng tuần tra Công an huyện T phối hợp Công an xã C, tổ xung kích C kiểm tra, phát hiện trong ví tiền của Đ có 01 tép nilon màu trắng, kích thước (3,5 x 01) cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng nghi là ma tuý đá nên lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Đ.

Tại Kết luận giám định số: 209/KL-KTHS ngày 15/10/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Thuận kết luận: Chất tinh thể màu trắng gửi đến giám định (ký hiệu M) là ma tuý, loại Methamphetamine, khối lượng mẫu gửi đến giám định ký hiệu M là: 0,1347g (không phẩy một ba bốn bảy gam). Hoàn trả đối tượng sau giám định: khối lượng 0,0724 gam.

Tại bản Cáo trạng số: 06/CT-VKSTN ngày 30 tháng 12 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Ninh Thuận đã truy tố bị cáo Phạm Quốc Đ (Minh) về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội: Hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, do đó Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Phạm Quốc Đ (Minh) phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Mức án từ 12 tháng tù đến 18 tháng tù.

Lời nói sau cùng: Tại phiên tòa, bị cáo biết hành vi của mình là sai trái vi phạm pháp luật nên mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội như sau: Ngày 06/10/2022, tại khu vực ngã ba mới Cà Ná thuộc thôn L 2, xã C, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. Bị cáo Phạm Quốc Đ (Minh) bị lực lượng tuần tra Công an huyện T phối hợp Công an xã C, tổ xung kích C bắt quả tang đang tàng trữ trái phép 0,1347 gam ma túy, loại Methamphetamine để sử dụng. Khối lượng mẫu còn lại sau giám định là 0,0724 gam ma túy, loại Methamphetamine (Tại Kết luận giám định số:

209/KL-KTHS ngày 15 tháng 10 năm 2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Thuận).

Xét thấy hành vi nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy và làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tại địa phương nên Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo Phạm Quốc Đ (Minh) về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Vì vậy phải xử phạt bị cáo một mức án thật nghiêm mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt.

Qua xem xét hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo có điều kiện cải tạo, rèn luyện bản thân mình thành người tốt sau này là phù hợp với quy định tại Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) phong bì dán kín, đóng dấu tròn đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Thuận và chữ ký của Nguyễn Duy Th, Lê Ngọc Th, Nguyễn Nghi A, Trần Huy H. Khối lượng mẫu ma túy đá trong phong bì lá 0,0724g (Không phẩy không bảyhai bốn gam).

Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước: 01 (Một) điện thoại di động Redmi 9A, màu đen, số IMEI 1: 860823053985804, số IMEI 1: 86082305398512. Đây là phương tiện phạm tội.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy và tịch thu sung Ngân sách Nhà nước vật chứng trên là phù hợp với quy định tại Điều 46 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đối với 01 (Một) xe mô tô, hiệu SIRIUS, biển kiểm soát 85B1-xxxxx, số khung: RLCUE3710KY028657, số máy: E32VE-068267 là phương tiện mà bị cáo Phạm Quốc Đ (Minh) sử dụng để đi mua ma tuý. Quá trình điều tra xác định xe mô tô này, bị cáo Đ mượn của anh Lê Hiếu V, sinh năm 1993, trú tại Khu phố 3, Phường M, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận. Anh V không biết việc bị cáo Đ sử dụng xe của mình làm phương tiện phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã tiến hành trả lại xe mô tô trên cho anh V là có cơ sở. Do đó, Hội đồng xét xử không xét đến.

Đối với người tên Kh (chưa rõ nhân thân, lai lịch) sử dụng thuê bao số điện thoại 08652xxxxx, đứng tên Nguyễn Văn Th, sinh năm 1988, trú tại xã T, huyện P, tỉnh Bình Thuận. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã tiến hành xác minh nhưng các đối tượng không có mặt tại địa phương. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T sẽ tiếp tục xác minh, làm rõ đề nghị xử lý sau. Do đó, Hội đồng xét xử không xét đến.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Phạm Quốc Đ (Minh) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Phạm Quốc Đ (Minh) 01 (Một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 07/10/2022.

Căn cứ Điều 46 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) phong bì dán kín, đóng dấu tròn đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Thuận và chữ ký của Nguyễn Duy Th, Lê Ngọc Th, Nguyễn Nghi A, Trần Huy H. Khối lượng mẫu ma túy đá trong phong bì lá 0,0724g (Không phẩy không bảyhai bốn gam) (Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 04 tháng 01 năm 2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T giữa Công an huyện T và Chi cục Thi hành án dân sự huyện T).

Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước: 01 (Một) điện thoại di động Redmi 9A, màu đen, số IMEI 1: 860823053985804, số IMEI 1: 86082305398512 (Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 04 tháng 01 năm 2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T giữa Công an huyện T và Chi cục Thi hành án dân sự huyện T).

Căn cứ vào khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội 14 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Phạm Quốc Đ (Minh) phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 24/02/2023).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

38
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 10/2023/HS-ST

Số hiệu:10/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Nam - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về